25/04/2018, 14:29

Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh hoặc di tích của quê hương em ( Văn Miếu – Quốc Tử Gíam ), Văn Miếu – Quốc TỬ Giám là quần...

Văn Thuyết Minh lớp 8 – Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh hoặc di tích của quê hương em ( Văn Miếu – Quốc Tử Gíam ). Văn Miếu – Quốc TỬ Giám là quần thể di tích đa dạng và phong phú hàng đầu của thành phố Hà Nội. ĐỀ 27: Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh hoặc di tích của quê hương ...

Văn Thuyết Minh lớp 8 – Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh hoặc di tích của quê hương em ( Văn Miếu – Quốc Tử Gíam ). Văn Miếu – Quốc TỬ Giám là quần thể di tích đa dạng và phong phú hàng đầu của thành phố Hà Nội.

ĐỀ 27: Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh hoặc di tích của quê hương em. (Văn Miếu – Quốc Tử Giám)

DÀN Ý CHI TIẾT

MỞ BÀI

–     Văn Miếu – Quốc Từ Giám là quần thể di tích đa dạng và phong phú hàng đầu của thành phố Hà Nội.

–     Văn Miếu – Quốc Tử Giám là nơi tham quan của du khách trong và ngoài nước đồng thời cũng là nơi khen tặng học sinh xuất sắc và nơi tổ chức hội thơ hằng năm vào ngày rằm tháng giêng.

II. THÂN BÀI

Nguồn gốc, xuất xứ

–     Văn Miếu được xây dựng từ năm (1070) tức năm Thần Vũ thứ hai đời Lý Thánh Tông.

–     Năm 1076. Lý Nhân Tông cho lập trường Quốc Tử Giám ở bên cạnh Văn Miếu có thể coi đây là trường đại học đầu tiên ở Việt Nam.

–     Năm 1253, vua Trần Thái Tông đổi Quốc Tử Giám thành Quốc Học Viện cho mở rộng và thu nhận cả con cái các nhà thường dân có sức học xuất sắc. Chức năng trường Ọuốc học ngày càng nổi bật hơn chức năng của một nơi tế lễ..

–     Đời Trần Minh Tông, Chu Văn An được cử làm quan Ọuốc Tử giám Tư nghiệp (hiệu trưởng) và thầy dạy trực tiếp của các hoàng tử. Năm 1370 ông mất được vua Trần Nghệ Tông cho thờ ở Văn Miếu bên cạnh Khổng Tử.

–     Sang thời Hậu Lê, Nho giáo rất thịnh hành.

–     Vào năm 1484, Lê Thánh Tông cho dựng bia tiến sĩ của những người thi đỗ tiến sĩ từ khoa thi 1442 trở đi (chủ trương đã đề ra năm 1442 nhưng chưa thực hiệt được). Mỗi khoa, một tấm bia đặt trên lưng rùa. Tới năm đó, nhà Lê đã tổ chức được 12 khoa thi cao cấp) Lê Thánh Tông (1460 – 1497) đã tổ chức đều đặn cứ ba năm một lần, đúng 12 khoa thi).

–     Năm 1762, Lê Hiển Tông cho sửa lại là Quốc Tử Giám – cơ sở đào tạo giáo dục cao cấp của triều đỉnh.

–     Đời nhà Nguyễn, Quốc Tử Giám lập tại Huế.

–         Năm 1802, vua Gia Long ấn định đây là Văn Miếu – Hà Nội và cho xây dựng Khuê Văn Các, với một chức năng duy nhất là nơi thờ tự Thánh hiền. Trường

Giám cũ ở phía sau Văn Miếu lấy làm nhà Khải thánh để thờ cha mẹ Khống Tử.

–         Đầu năm 1947, giặc Pháp nã đạn đại bác làm đổ sập căn nhà, chỉ còn cái nền với hai cột đá và 4 nghiên đá. Ngày nay, ngôi nhà này đã được phục dựng theo kiến trúc cùng thời với quần thể các công trình còn lại.

2.Kết cấu

–     Nhà Thái học có ba gian, có tường nang, lợp bằng ngói đồng.

–     Nhà giảng dạy ở phía đông và tây hai dày đều 14 gian.

–         Phòng học của học sinh tam xá đều ba dãy, mồi dãy 25 gian, mỗi gian 2 người”.

–     Khuôn viên được bao bọc bởi bốn bức tường xây bàng gạch Bát Tràng.

–         Quần thể kiến trúc Văn Miếu – Quốc Tử Giám được bố cục đăng đối từng Khu, từng lớp theo trục Bắc Nam, mô phỏng tổng thể quy hoạch khu Văn Miếu thờ Khổng Tử ở quê hương ông tại Khúc Phụ, Sơn Đông, Trung Ọuốc.

–         Phía trước Văn Miếu có một hồ lớn gọi là hồ Văn Chương, tên cũ xưa gọi là Thái Hồ. Giữa hồ có gò Kim Châu, trước đây cỏ lầu để ngắm cảnh.

–         Ngoài cổng chính có tứ trụ, hai bên tả hữu có bia “Hạ Mã”, xung quanh khu vực xây tường cao bao quanh.

–        Cổng Văn Miếu xây kiểu Tam quan, trên có 3 chữ “Văn Miếu Môn” kiểu chữ Hán cổ xưa.

–          Trong Văn miếu chia làm 5 khu vực rõ rệt, mỗi khu vực đều có tường ngăn

cách và cổng đi lại liên hệ với nhau:

+ Khu thứ nhất: bắt đầu với cổng chính Văn Miếu Môn đi đến cổng Đại Trung Mòn, hai bên có cửa nhỏ là Thành Đức Mòn và Đạt Tài Môn.

+ Khu thứ hai: từ Đại Trung Môn vào đến Khuê Văn Các (do Đức Tiền Quân Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành cho xây năm 1805).

+ Klui thứ ba: gồm hồ nước Thiên Quang Tỉnh (nghĩa là giếng soi ánh mặt trời).

+ Khu thứ tư: là khu trung tâm và là kiến trúc chủ yếu của Văn Miếu, gồm hai công trình lớn bố cục song song và nối tiếp nhau. Toà ngoài nhà là Bái đường, toả trong là Thượng cung.

+ Khu thứ năm: là khu Thái Học, trước kia đã có một thời kỳ đây là khu đền Khải thánh, thờ bố mẹ Khổng Tử, nhưng đã bị phá huỷ. Khu nhà Thái Học mới

được xây dựng lại năm 2000.

–         Trong Văn Miếu có tượng Khổng Tử và Tử Phối (Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử).

–     Ở điện thờ Khổng Tử có hai cặp hạc cưỡi trên lưng rùa.

–         Hình ảnh hạc chầu trên lưng rùa biểu hiện của sự hài hoà giữa trời và đất. giữa hai thái cực âm – dương.

3.ý nghĩa

–     Là hình ảnh tiêu biểu của Hà Nội.

–      Là nơi tượng trưng cho truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo của dân tộc Việt Nam.

III. KẾT BÀI

–      Vào tháng 3/2010, 82 tấm bia Tiến sĩ triều Lê – Mạc tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám đã được tổ chức UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thế giới khu vực châu Á – Thái Bình Dương.

–     Đến ngày 27/7/2011, 82 bia Tiến sĩ lại tiếp tục được công nhận là Di sản tư liệu thế giới trên phạm vi toàn cầu.

–      Di tích làm rạng rỡ văn hóa. lịch sử sâu rộng của dân tộc Việt Nam; tôn vinh nền văn hóa, nền giáo dục, truyền thống hiếu học, hiếu nghĩa, tôn sư trọng đạo, quý đức, quý tài của dân tộc Việt Nam.

BÀI VĂN THAM KHẢO

Văn Miếu – Quốc Tử Giám là quần thể di tích đa dạng và phong phú hàng đầu của thành phố Hà Nội, nằm ở phía nam kinh thành Thăng Long thời nhà Lý. Là tổ hợp gồm hai di tích chính: Văn Miếu thờ Khổng Tử, các bậc hiền triết của Nho giáo và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An, người thầy tiêu biểu đạo cao, đức trọng của nền giáo dục Việt Nam; và Ọuốc Tử Giám trường Ọuốc học cao cấp đầu tiên của Việt Nám, với hơn 700 năm hoạt động đã đào tạo hàng nghìn nhân tài cho đất nước. Ngày nay, Văn Miếu – Ọuốc Tử Giám là nơi tham quan của du khách trong và ngoài nước đồng thời cũng là nơi khen tặng học sinh xuất sắc và nơi tổ chức hội thơ hàng năm vào ngày rằm tháng giêng. Đặc biệt, đây còn là nơi các sĩ tử ngày nay đến “cầu may” trước mỗi kỳ thi.

Lịch sử

Văn Miếu được xây dựng từ năm (1070) tức năm Thần Vũ thứ hai đời Lý Thánh Tông (Đại Việt sứ ký toàn thư.Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội 1972, TI, tr.234) chép “Mùa thu tháng 8, làm Văn Miếu, đắp tượng Khống Tử, Chu Công và Tứ phổi, vẽ tượng Thất thập nhị hiền, bốn mùa cúng tế. Hoàng thái tử đến đây học”.

Năm 1076, Lý Nhân Tông cho lập trường Quốc Tử Giám ở bên cạnh Văn Miếu có thể coi đây là trường đại học đầu tiên ở Việt Nam. Ban đầu, trường chỉ dành riêng cho con vua và con các bậc đại quyền quý (nên gọi tên là Quốc Tử). (Việt sử thông giám cương mục. Nxb. Văn sử địa. 1957) chép: “Bính Thìn, năm Anh Vũ Chiêu Thắng thứ I tháng 4… lập nhà Ọuốc Tử Giám; tuyển trong các văn thần lấy những người có văn học, bổ vào đó”. Năm 1156, Lý Anh Tông cho sửa lại Văn Miếu và chỉ thờ Khổng Tử.

Năm 1253, vua Trần Thái Tông đổi Ọuổc Tử Giám thành Quốc Học Viện cho mở rộng và thu nhận cả con cái các nhà thường dân có sức học xuất sắc. Chức năng trường Quốc học ngày càng nổi bật hơn chức năng của một nơi tế lễ “Quý Sửu năm thứ ba (1253)… Tháng 6 lập Quốc Học Viện tô tượng Không Tử, Chu công và Á Thánh, vẽ tượng 72 người hiền để thờ… Tháng 9 xuống chiếu cho các nho sĩ trong nước đến Quốc học viện giảng học tứ thư, lục kinh(ĐVSKTT).

Đời Trần Minh Tông. Chu Văn An được cử làm quan Quốc Tử giám Tử nghiệp hiệu trưởng) và thầy dạy trực tiếp của các hoàng tử. Năm 1370 ông mất, được vua Trần Nghệ Tông cho thờ ở Văn Miếu bên cạnh Khổng Tử.

Sang thời Hậu Lê, Nho giáo rất thịnh hành. Vào năm 1484, Lê Thánh Tông cho dựng bia tiến sĩ của những người thi đỗ tiến sĩ từ khoa thi 1442 trở đi (chủ trương đã đề ra năm 1442 nhưng chưa thực hiện được). Mỗi khoa, một tấm bia đặt trên lưng rùa. Tới năm đó, nhà Lê đã tổ chức được 12 khoa thi cao cấp, (Lê Thánh Tông 460 – 1497) đã tổ chức đều đặn cứ ba năm một lần, đúng 12 khoa thi).

Không phải khoa thi nào tiến hành xong đều được khắc bia ngay, không phải bia đã dựng thì vĩnh tồn. không hư hỏng, không mất mát. Từng thời có những đợt dựng, dựng lại lớn, như năm 1653 (Thịnh Đức năm thứ nhất, năm 1717(Vĩnh Thịnh năm thứ 13)).

Cuối triều Lê, thời Cánh Hưng, bia vẫn được khắc đều đặn. Dù không còn giữ được đủ bia, nhà bia Trường Giám đã lưu lại về sau rất nhiều những công trình điêu khắc giá trị và tư liệu lịch sử quý báu.

Năm 1762, Lê Hiển Tông cho sửa lại là Ọuổc Tử Giám – cơ sở đào tạo và giáo dục cao cấp của triều đình.

Đời nhà Nguyền. Quốc Tứ Giám lập tại Huế. Năm 1802, vua Gia Long ấn định đã là Văn Miếu – Hà Nội và cho xây thêm Khuê Văn Các, với một chức năng duy nhất là nơi thờ lự Thánh hiền. Trường Giám cũ ở phía sau Văn Miếu lấy làm nhà khai thánh để thờ cha mẹ Khổng Tử. Đầu năm 1947, giặc Pháp nã đạn đại bác làm nó sập căn nhà, chỉ còn cái nền với hai cột đá và 4 nghiên đá. Ngày nay, ngôi nhà này đã được phục dựng theo kiến trúc cùng thời với quần thể các công trình còn lại.

Kiến trúc

Nhà Thái học sinh đời Lý – Trần quy mô thế nào, hiện chưa khảo cứu dược, vì các tư liệu lịch sử đã bị quân Minh khi xâm chiếm nước ta đốt hoặc đưa hết về Yên Kinh, tức Bắc Kinh ngày nay.

Tuy nhiên, nhà Thái học sinh thời nhà Lê đà được Lê Quý Đôn miêu tả trong “Kiến văn tiểu lục” thì: “Nhà Thái học cỏ ba gian, có tường nang, lợp bằng ngói đông. Nhà giảng dạy ở phía đông và tây hai dãy đều 14 gian. Phòng học của học sinh tam xá đều ba dãy, mỗi dãy 25 gian, mỗi gian 2 người”. Toàn bộ kiến trúc Văn  Miếu hiện nay đều là kiến trúc thời đầu nhà Nguyễn. Khuôn viên được bao bọc bởi bốn bức tường xây bằng gạch Bát Tràng.

Quần thể kiến trúc Văn Miếu – Quốc Tử Giám được bổ cục đăng đối từng khu, từng lớp theo trục Bắc Nam, mô phỏng tổng thể quy hoạch khu Văn Miếu thờ Khổng Tử ở quê hương ông tại Khúc Phụ, Sơn Đông, Trung Quốc. Tuy nhiên, quy mô ở đây đơn giản hơn, kiến trúc đơn giản hơn và theo phương thức truyền thống nghệ thuật dân tộc.

Phía trước Văn Miếu có một hồ lớn gọi là hồ Văn Chương, ten cũ xưa gọi là

Thái Hồ. Giữa hồ có gò Kim Châu, trước đây có lầu để ngắm cành.

Ngoài cổng chính có tứ trụ, hai bên tả hữu có bia “Hạ Mà”, xung quanh khu vực xây tường cao bao quanh, cổng Văn Miếu xây kiểu Tam quan, trên có 3 chừ “Văn Miếu Môn” kiểu chư Hán cổ xưa.

Trong Văn miếu chia làm 5 khu vực rõ rệt, mỗi khu vực đều có tường ngăn cách và cổng đi lại liên hệ với nhau:

Khu thứ nhất: bắt đầu với cổng chính Văn Miếu Môn đi đến cổng Đại Trung Môn, hai bên có cửa nhỏ là Thành Đức Môn và Đạt Tài Môn.

Khu thứ hai: từ Đại Trung Môn vào đến Khuê Văn Các (do Đức Tiền Quân Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành cho xây năm 1805). Khuê Văn Các là công trình kiến trúc tuy không đồ sộ song tỷ lệ hài hoà và đẹp mắt. Kiến trúc gồm trụ gạch vuông (85 cm X 85 cm) bên dưới đỡ tầng gác phía trên, có những kết cấu gỗ rất đẹp. Tầng trên có 4 cửa hình tròn, hàng lan can con tiện và con sơn đỡ mã bàng gỗ đơn giản, mộc mạc. Mái ngói chồng hai lớp tạo thành công trình 8 mái, gờ mái và mặt mái phẳng. Gác là một lầu vuông tám mái, bốn bên tường gác là cửa sổ tròn hình mặt trời toả sáng. Hình tượng Khuê Văn Các mang tất cả những tinh tú của bầu trời toả xuống trái đất và trái đất nơi đây được tượng trưng hình vuông của giếng Thiên Ọuang. Công trình mang vẻ đẹp sao Khuê, ngôi sao sáng tượng trưng cho văn học. Đây là nơi thường được dùng làm bên phải trái Khuê Văn Các là Bi Văn Môn và Súc Văn Môn dẫn vào hai khu nhà bia Tiến Sỹ.

Khu thứ ba: gồm hồ nước Thiên Quang Tỉnh (nghĩa là giếng soi ánh mặt trời. có hình vuông. Hai bên hồ là 2 khu nhà bia tiến sĩ. Mỗi tấm bia được làm bằng đá, khắc tên các vị thi đỗ Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, Hoàng giáp, Tiến sĩ Bia đặt trên lưng một con rùa. Hiện còn 82 tấm bia tiến sĩ về các khoa thi từ năm 1442 đến năm 1779 (có tài liệu cho rằng 1484 – 1780), chia đều cho hai khu tả hữu. Trong đó, 12 bia đầu tiên (cho các khoa thi những năm 1442 – 1514) được dựng vào thời Lê sơ, 2 bia (cho các khoa 1418, 1529) được dựng vào triều nhà Mạc, còn 68 bia cuối cùng (các khoa thi những năm 1554 – 1779) được dựng vào thời Lê trung hưng. Mỗi khu nhà bia gồm có 1 Bia đình năm ở chính giữa và 4 nhà bia (mỗi nhà 10 bia) xếp thành hai hàng, nằm hai bên Bia đình. Bia đình khu bên trái Thiên Quang Tỉnh chứa bia tiến sĩ năm 1442, còn Bia đình khu bên phải chín bia tiến sĩ năm 1448.

Khu thứ tư: là khu trung tâm và là kiến trúc chủ yếu của Văn Miếu, gồm ba công trình lớn bố cục song song và nối tiếp nhau. Toà ngoài nhà là Bái đường, tòa trong là Thượng cung.

Khu thứ năm: là khu Thái Học, trước kia đã có một thời kỳ đây là khu đền Khi thánh, thờ bố mẹ Khổng Tử, nhưng đã bị phá huỷ. Khu nhà Thái Học mới được xây dựng lại năm 2000.

Trong Văn Miếu có tượng Khổng Tử và Tử phối (Nhan Từ, Tăng Tử, Tử Tư Mạnh Tử). Ở điện thờ Khổng Tử có hai cặp hạc cưỡi trên lưng rùa. Đây là hình tượng rất đặc trưng tại các đền, chùa, lăng tẩm, miếu mạo ở Việt Nam. Hình ảnh hạc chầu trên lưng rùa biểu hiện của sự hài hoà giữa trời và đất, giữa hai thái cự, âm – dương. Hạc là con vật tượng trưng cho sự tinh tuý và thanh cao. Theo truyền thuyết rùa và hạc là đôi bạn rất thân nhau. Rùa tượng trưng cho con vật sống dưới nước, biết bò, hạc tượng trưng cho con vật sống trên cạn, biết bay. Khi trời làm mưa lù, ngập úng cả một vùng rộng lớn, hạc không thế sổng dưới nước nên rùa đã giúp hạc vượt vùng nước ngập úng đến nơi khô ráo. Ngược lại, khi trời hạn hán, rùa đã được hạc giúp đưa đến vùng có nước. Điều này nói lên lòng chung thuỷ và sự tương trợ giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn, hoạn nạn giữa những người bạn tốt.

Ngày nay, Khuê Văn Các ở Văn Miếu – Ọuốc Tử Giám đã được công nhận là biểu tượng của thành phố Hà Nội.

Vào tháng 3/2010, 82 tấm bia Tiến sĩ triều Lê – Mạc tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám đã được tổ chức UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thế giới khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Đến ngày 27/7/2011. 82 bia Tiến sĩ lại tiếp tục được công nhận là Di sản tư liệu thế giới trên phạm vi toàn cầu. Di tích làm rạng rỡ văn hóa, lịch sử sâu rộng cùa dân tộc Việt Nam.

(Theo Quốc Vân, 36 Kiến trúc Hà Nội, 2010)

van vinh thang

0 chủ đề

23876 bài viết

Có thể bạn quan tâm
0