16/01/2018, 13:15

Thuyết minh về lễ hội làng – Văn mẫu lớp 9

Thuyết minh về lễ hội làng – Văn mẫu lớp 9 Thuyết minh về lễ hội làng – Bài số 1 Lễ hội là một trong những nét văn hóa của dân tộc ta, nó không chỉ là nơi để vui chơi giải trí mà nó còn là để cho nhân dân ta thể hiện mong ước hay nhớ ơn tổ tiên ông bà ta. Mỗi một quê hương có những ...

Thuyết minh về lễ hội làng – Văn mẫu lớp 9

Thuyết minh về lễ hội làng – Bài số 1

Lễ hội là một trong những nét văn hóa của dân tộc ta, nó không chỉ là nơi để vui chơi giải trí mà nó còn là để cho nhân dân ta thể hiện mong ước hay nhớ ơn tổ tiên ông bà ta. Mỗi một quê hương có những lễ hội riêng, tiêu biểu có thể kể đến lễ hội cầu ngư – lễ hội cá ông.

Có thể nói nhắc đến cái tên lễ hội ấy thì chúng ta hẳn cũng biết là lễ hội của những ai. Nói đến cá thì chỉ có nói đến nhân dân vùng ven biển sinh sống bằng nghề đánh bắt cá. Chính đặc trưng ngành nghề ấy đã quyết định đến tín ngưỡng của họ. Những người sống ven biển miền trung thường có tục thờ ngư ôn. Chính vì thế cho nên hàng năm họ thường tổ chức vào các năm giống như những hội ở miền Bắc. Họ quan niệm rằng là sinh vật thiêng ở biển, là cứu tinh đối với những người đánh cá và làm nghề trên biển nói chung. Điều này đã trở thành một tín ngưỡng dân gian phổ biến trong các thế hệ ngư dân ở các địa phương nói trên.

Ở mỗi địa phương thì thời gian diễn ra lễ hội truyền thống lại diễn ra khác nhau. Ở Vũng Tàu thì được tổ chức vào 16, 17, 18 tháng 8 âm lịch hàng năm. Ở thành phố Hồ Chí Minh thì lại được tổ chức vào 14 – 17/18 âm lịch hàng năm. Nói chung dù diễn vào thời gian nào thì tất cả những lễ hội ấy đều nói lên được nét đặc trưng văn hóa của nhân dân ven biển. Đồng thời nó thể hiện khát vọng bình yên, cầu mong cuộc sống ấm no hạnh phúc thịnh vượng của họ. Lễ hội Ngư Ông còn là nơi cho mọi người tưởng nhớ đến việc báo nghĩa, đền ơn, uống nước nhớ nguồn.

Tiếp đến chúng ta đi vào phân tích phần lễ hội ngư ông. Trước hết là phần lễ thì bao gồm có hai phần:

Thứ nhất là lễ rước kiệu, lễ rước đó là của Nam hải Tướng quân xuống thuyền rồng ra biển. Khi ấy những ngư dân sống trên biển và bà con sẽ bày lễ vật ra  nghênh đón với những khói nhang nghi ngút. Cùng với thuyền rồng rước thủy tướng, có hàng trăm ghe lớn nhỏ, trang hoàng lộng lẫy, cờ hoa rực rỡ tháp tùng ra biển nghênh ông. Không khí đầy những mùi hương của hương án và bày trước mắt mọi người là những loại lễ. Trên các ghe lớn nhỏ này có chở hàng ngàn khách và bà con tham dự đoàn rước. Đoàn rước quay về bến nơi xuất phát, rước ông về lăng ông Thủy tướng. Tại bến một đoàn múa lân, sư tử, rồng đã đợi sẵn để đón ông về lăng. Có thể thấy lễ rước ông không những có sự trang nghiêm của khói hương nghi ngút mà còn có sự đầy đủ của lễ vật và âm nhạc rộn rã của múa lân.

Thứ hai là phần lễ tế. Nó diễn ra sau nghi thức cúng tế cổ truyền. Đó là các lễ cầu an, xây chầu đại bội, hát bội diễn ra tại lăng ông Thủy tướng. 

Tiếp đến là phần hội thì trước thời điểm lễ hội, hàng trăm những chiếc thuyền của ngư dân được trang trí cờ hoa đẹp mắt neo đậu ở bến. Phần hội gồm các nghi thức rước Ông ra biển với hàng trăm ghe tàu lớn nhỏ cùng các lễ cúng trang trọng. Đó là không khí chung cho tất cả mọi nhà trên thành phố đó thế nhưng niềm vui ấy không chỉ có ở thành phố mà nó còn được thể hiện ở mọi nhà. Ở tại nhà suốt ngày lễ hội, các ngư dân mời nhau ăn uống, kể cả khách từ nơi xa đến cũng cùng nhau ăn uống, vui chơi, trò chuyện thân tình.

Như vậy qua đây ta thấy hiểu thêm về những lễ hội của đất nước, ngoài những lễ hội nổi tiếng ở miền Bắc thì giờ đây ta cũng bắt gặp một lễ hội cũng vui và ý nghĩa không kém là ngư ông. Có thể nói qua lễ hội ta thêm hiểu hơn những mong muốn tốt lành của những người ngư dân nơi vùng biển đầy sóng gió. Đặc biệt nó cũng trở thành một lễ hội truyền thống của những người dân nơi biển xa.

Thuyết minh về lễ hội làng – Bài số 2

Lễ hội là tín ngưỡng văn hoá của mỗi dân tộc. Hầu như làng, xã nào cũng có lễ hội được tồ chức vào đầu xuân. Mọi người dân Thuận Thành, Bắc Ninh thường có câu ca:

Dù ai buôn đâu, bán đâu
Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về
Dù ai buôn bán trăm nghề
Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu.

Câu ca dao như một lời nhắc nhở các tín đồ phật giáo hãy nhớ về hội Dâu được tổ chức vào đầu xuân hàng năm.

Hội Dâu được tổ chức vào mồng 8 tháng 4 âm lịch hàng năm. Chùa Dâu là một ngôi chùa cổ nhất Việt Nam, được xây dựng vào những năm đầu thế ki XV. Mặc dù vậy chùa Dâu vẫn giữ được những nét nguyên bản từ khi được xây dựng tới nay. Hàng năm, chùa Dâu thu hút rất nhiều tín đồ đến thắp hương, đặc biệt là vào dịp lễ hội. Vào mỗi dịp lễ hội, người dân háo hức tổ chức sửa sang chùa chiền. Ngay từ chiều mùng 7 đã có lễ rước các bà Dâu, bà Đậu, bà Dàn, bà Keo mà theo truyền thuyết bốn bà được tạc từ một cây dâu, chị cả là bà Dâu nên chùa Dâu được xây dựng lớn nhất. Đặc biệt vào ngàv mồng 7, các vãi đến để cúng, quét dọn và làm lễ rửa chùa. Ngày hội chính diễn ra rất sôi động, náo nhiệt. Mọi người đến đây với lòng thành kính, kính mong đức phật ban cho sự an lành, ấn no. Chùa có rất nhiều gian, điện, đặc biệt có pho tượng Kim Đồng – Ngọc Nữ đạt đến chuẩn mực nghệ thuật cao với các tỉ lệ của người thật. Hành lang hai bên có những pho tượng với nhiều tư thế, nét mặt khác nhau. Người ta đến lỗ hội không chỉ để thắp hương, cầu an mà còn để vui chơi, đón không khí ngày xuân. Có rất nhiều trò chơi được tổ chức trong lễ hội như: đu quay, hát quan họ đối đáp, giao duyên giữa các liền anh, liền chị dưới thuyền rồng với những trang phục mớ ba, mớ bảy cổ truyền. Khắp sân chùa là những hàng bán đồ cúng, những nén hương trầm, hay những đồ chơi dân gian cho trẻ em như sáo, trống… hoặc chỉ là những bông lan thơm ngát. Tất cả tạo ra một không khí cộng đồng ấm cúng. Mọi người quên đi sự bận rộn, quên đi sự bon chen, thách thức để nhớ tới đức phật cùng sự thánh thiện, nhớ tới cõi bình an của tâm hồn. Khoảng 7 giờ sáng ngày 8/4, người ta đã nghe thấy tiếng chiêng, tiếng trống và tiếng cúng tế dâng sớ cầu mong bình an, lạy tạ các vị thánh thần, phật pháp của đội tế lễ tứ sắc chùa lập ra. Đặc biệt, ở lễ hội Dâu thờ Tứ Pháp là Pháp Vân (bà Dâu), Pháp Vũ, Pháp Điện, Pháp Lôi. Sau khi các cụ làm lễ xong, đoàn rước từ chùa Tổ bắt đầu quay về, hàng đoàn người kéo nhau đi theo hộ tống. Người đi đầu cầm bình nước, người thứ hai dâng hương, tiếp đó là đoàn kiệu được những trai tráng của lồng khiêng. Họ mặc những trang phục như quân tốt đỏ thời xưa, theo sau là các bà mặc áo nâu đội sớ. Người cầm nước vừa đi vừa cầm cành trúc vẩy nước vào những người xung quanh như ban sự may mắn cho mọi người. Người ta quan niệm rằng ai được vẩy nước vào sẽ may mắn, được Phật ban phước quanh năm và được Phật phù hộ, bảo vệ. Khi hội tan, mọi người về rồi thắp hương ở ngoài sân thờ nhớ lời hẹn gặp năm sau. Nhưng lạ lùng hơn hầu như năm nào sau hội trời cũng mưa và người dân cho đấy là lễ tẩy chùa, ở một khía cạnh nào đó thì đây được coi như một điều linh nghiệm huyền bí.

Lễ hội thể hiện trình độ tổ chức cao, sự kết hợp giữa làng xã và ý thức cộng đồng, cuốn hút khách thập phương với những nét nghệ thuật, văn hoá đặc sắc, phong phú. Đối với Bắc Ninh, cái nôi của Phật giáo thì đây là dịp thể hiện sự tài hoa, tinh tế, lịch lãm trong văn hoá ứng xử, giao tiếp. Là một người con của Bắc Ninh, em cảm thấy tự hào về truyền thống của quê hương mình và em sẽ luôn có ý thức bảo vệ và gìn giữ những nét văn hoá ấy, đặc biệt là những lễ hội truyền thống mang đậm nét văn hoá dân tộc vào những ngày đầu xuân.

Thuyết minh về lễ hội làng – Bài số 3

Bạch Hạc, Việt Trì thuộc tỉnh Phú Thọ, một vùng quê sông nước mênh mông, đồng lúa bát ngát. Đó cũng là một vùng quê có lễ hội bơi trải, đua trải kéo dài trong hai tháng, tháng 5 và tháng 6 âm lịch hàng năm, và được gọi là "tiệc bơi".

Bơi trải gắn liền với hội làng, để tế thần cầu mong mưa thuận gió hòa, được mùa, an cư lạc nghiệp, thanh bình. Đào Xá thờ Lý Bôn, Kẻ Rau thờ Tam Giang Đại Vương, Thổ Lệnh, Kẻ Hạc cũng thờ Tam Giang Đại Vương là thủy thần Ngã ba sông. Còn Kẻ Me lại thờ Đăng Đạo Song Nga và Đức Thánh Tản Viên, Đức Bác thờ Bát Nàn công chúa, An Đạo thờ Long Xà Đại Vương và Út Soi Đại Vương … .

Chỉ có xã Đào Xá tổ chức bơi trải vào ban đêm:

"Mồng chín có Tiệc anh ơi,
Mồng mười hạ trải xuống bơi thờ thần.
Trai thanh tân bước vào đòn kiệu
Trống kiệu vào là trống canh ba
Trải bơi ra, ngọn cờ phe phấy
Trải bơi vào, cờ phất trống rung …"
                        (Dân ca)

Các làng khác đều thi bơi trải vào ban ngày. Con thuyền đua rất dài, thọn nhỏ, chia thành 24 khoang, có 48 chèo (24×2), một người cầm lái ngồi ở đuôi thuyền, một người đứng giữa thuyền phất cờ điều và đánh trống. Các tay chèo là trai tân ( chưa vợ), rất lực lưỡng, cường tráng. Ở Lương Nha bơi trải có năm thuyền con trai đua với năm thuyền con gái, vui đáo để.

Vùng Ngã ba Bạch Hạc có bài ca nói về các hội bơi trải trong vùng:

   "Rau gác, Hạc bơi,
   Hạc gác, Me bơi,
   Me gác, Đức Bác bơi,
   Đức Bác gác, Dạng bơi …"

Hội bơi trải ở làng này vừa rã đám,thì hội bơi trải ở làng khác lại cờ mở trống rung. Mùa lễ hội dân gian diễn ra tưng bừng náo nhiệt.

Ở Phú Thọ, hội bơi trải Kẻ Hạc và Kẻ Mơ là đông vui nhất, năm nào cũng có hàng vạn người gần xa kéo về dự hội.

Sau Kẻ Rau là đến hội trải Kẻ Hạc, diễn ra vào ngày 20 tháng 5 âm lịch. Kẻ Hạc có bốn giáp, mỗi giáp một màu cờ sắc áo riêng: màu trải, màu mái chèo, mũ, áo quần các tay chèo phải cùng màu theo luật lệ quy định: Trải Tiên Hạc màu xanh, trải Thần Trúc màu đỏ, trải Đồng Nam màu trắng, và trải Bộ Đầu màu vàng.

Buổi sáng ngày tiệc tế, các nam phụ lão ấu nhất là các thôn nữ mặc quần áo đẹp kéo ra đứng đông nghịt trên bờ, tiếng chiêng trống nổi lên vang dội xóm làng. Khi các tay chèo đã ngồi vào khoang, tay nắm mái chèo sẵn sàng, các trải dàn hàng ngang đều tăm tắp, thì một hồi trống rung lên, cuộc thi bắt đầu. Trống mõ thúc liên hồi kì trận. Hàng ngàn hàng vạn người reo hò. Các tay trải cúi rạp người chém mái chèo xuống nước, cánh tay hối hả, miệng hô: " Dô huỵch! Hồ huỵch !" Những con trải lướt băng băng, như những múi tên lướt về phía trước. Các trải xuất phát từ đình Hạc qua bến Gút đến Tiên Cát cầu Việt Trì, quay trở lại bến Gút về đỗ trước bến Hạc giữa tiếng trống , tiếng hò như sấm dậy. Ánh mắt các thiếu nữ sáng ngời lên …

Hội bơi trải Kẻ Me diễn ra ba ngày sau đó, từ 25 đến 27 tháng 5 âm lịch. Kẻ Me có 3 giáp : Phù Yên, Bồ Thôn và Hạc Đình. Mỗi thôn có một thuyền rồng bằng gỗ chò, hai đầu sơn đỏ, giữa sơn đen. Mỗi thuyền chỉ có 40 người, 38 tay chèo, 1 bẻ lái, 1 cầm cờ. Ngày 24 hạ trải ở sông Phó Đáy, sáng 25 đua trải từ đình tới làng Diệm Xuân, chiều 26 bơi tới bến Cả làng Nghĩa Yên, sáng 27 đua tới đình làng Hội Chữ. Chiều 26, cuộc thi bơi " cướp cờ" là háo hức, sôi động nhất. Chiều 27 bơi rước kiệu về Ngã Ba Chạ để " tiễn thánh về".

Hội bơi trải ở vùng Bạch Hạc, Việt Trì đã có hàng nghìn năm nay. Một lễ hội dân gian đậm đà màu sắc văn hóa- văn minh sông Hồng, cái nôi của nền văn minh Lạc – Việt.

Thuyết minh về lễ hội làng – Bài số 4

Cứ vào mỗi dịp Tháng Giêng- tháng sau tết Nguyên Đán là khắp nơi ở Việt Nam nổ ra không khí của những lễ hội. Những lễ hội này thu hút về đây đông đảo du khách hành hương, cúng bái.Cũng vào dịp lễ hội này, làng Triều Khúc – Hà Nội lại náo nức chuẩn bị cho những lễ hội,những sinh hoạt tín ngưỡng vô cùng độc đáo.

Làng Triều Khúc là một làng nhỏ nằm ở xã Tân triều, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.Năm nào cũng vậy, cứ vào ngày mùng mười đến ngày mười hai tháng một, người dân Triều Khúc lại nô nức chuẩn bị lễ hội.Lễ hội này được tổ chức nhằm tưởng nhớ công ơn của vị thành hoàng làng là Bố Cái đại vương Phùng Hưng ( 770- 798) và ông Vũ Đức Ủy, sống ở thế kỉ thứ mười tám. Ông được xem như vị tổ nghề của người dân làng Triều Khúc.

Lễ hội được chính thức bắt đầu vào ngày mùng mười, lễ rước kiệu được tiến hành ở đình Lớn.Mở đầu là lễ rước long bào- triều phục của Phùng Hưng từ đình Sắc về đình Lớn để  bắt đầu lễ hoàn cung.Trong lễ hội của làng Triều Khúc vẫn còn lưu giữ được rất nhiều trò chơi , những phong tục mang màu sắc dân gian độc đáo như: điệu múa đĩ đánh bồng hay còn gọi là Trống Bồng- đây là điệu múa cổ, do hai chàng trai giả gái múa. Điệu múa  khi xưa dùng để động viên tướng sĩ trước khi đi đánh trận.

Bên cạnh múa Trống Bồng thì còn có múa Rồng. Đây là điệu múa cầu cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an…. Điệu múa này đòi hỏi sự phối hợp của rất nhiều người, bao gồm các động tác như: rồng chào, rồng trực, rồng chầu, rồng bay cao, hạ thấp, rồng lượn, rồng ngậm ngọc…..

Ngoài ra, trong lễ hội của làng Triều Khúc còn có rất nhiều trò chơi dân gian khác như: múa lân hí cầu, đấu vật, hát chèo…
Khi kết thúc còn có điệu múa cờ vô cùng ấn tượng và đẹp mắt.Điệu múa được thực hiện trong tiếng trống phách, tiếng hò reo khí thế như khi những đoàn quân ra trận.

Thời gian tổ chức lễ hội không dài như những lễ hội lớn khác nhưng người dân làng Triều Khúc ai cũng tham gia sôi nổi, nhiệt tình, tạo ra không khí lễ hội mang màu sắc dân gian.

Trong những ngày lễ hội này, không chỉ có người dân làng Triều Khúc mà người dân thủ đô cũng như khách thập phương kéo về tham dự lễ hội, hành hương rất đông đúc.

Lễ hội của làng Triều Khúc là cách người dân tưởng nhớ công ơn của vị thần Hoàng làng và vị tổ nghề. Đây là truyền thống tốt đẹp của cha ông “ Uống nước nhớ nguồn”, đồng thời những sinh hoạt văn hóa, sinh hoạt tín ngưỡng trong những ngày diễn ra lễ hội cũng góp phần duy trì bản sắc sinh hoạt từ lâu đời của ông cha ta. Làng Triều Khúc mỗi năm đều diễn ra lễ hội và đây là điều kiện để họ tưởng nhớ về truyền thống của dân tộc và đấy là điều kiện để chúng ta tưởng nhớ công ơn của những người đã có công với dân làng đó, lễ hội được tổ chức ra nhằm tưởng nhớ đến vị thành hoàng làng người đã có công với dân làng, đem lại cho họ những cuộc sống âm no sung túc.

Lễ hội này mỗi năm đều diễn ra một lần thường là diễn ra vào mùa xuân và diễn tra vào mùng 10, ở đây lễ hội được diễn ra thường niên nó được diễn ra với đầy đủ những nghĩ lễ đầu tiên là việc rước lễ đây là phần thể hiện sự thành kính và sự yêu thương quý trọng biết ơn đối với các vị thần. tiếp theo còn phần hội nó diễn ra sôi nổi với các trò chơi dân gian như trò múa nước, đây là điều kiện quan trọng để mỗi người chúng ta làm được những điều có giá trị và ý nghĩa nhất. Trong lễ hội mọi thứ đều được diễn ra một cách gọn gàng quy củ nó thể hiện những sự thành kính sâu sắc dành cho con người, những giá trị niềm tin to lớn và vô cùng sâu sắc để tặng cho con người.

 Lễ hội diễn ra chủ yếu để ôn lại những giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là những lễ hội và nghi thức được diễn ra trạng trọng đây là thời gian để dân tộc ta ôn lại truyền thống của dân làng, nó để lại những bài học to lớn về giá trị cội nguồn của dân tộc Việt Nam.

Vũ Hường tổng hợp

Từ khóa tìm kiếm

  • thuyết minh về lễ hội làng
  • Thuyet minh ve le hoi que em
  • nhung bai van hay viet ve hoi lang
  • bai van thuyet minh ve le hoi que em
  • thuyet minh ve mot le hoi
  • thuyết minh về lê hội
0