31/05/2017, 13:18

Thuật ngữ xem bói tướng mặt nam nữ

Trong thuật xem tướng mặt, các bộ phận trên khuôn mặt của con người được coi là tượng trưng cho những phương diện khác nhau của vận thế cuộc đời. Nhân tướng học đã đặt tên cho những bộ phận này căn cứ vào quy luật xem tướng. Qua đó, chúng ta có thể nhận thức được một cách trực quan về những thông ...

Trong thuật xem tướng mặt, các bộ phận trên khuôn mặt của con người được coi là tượng trưng cho những phương diện khác nhau của vận thế cuộc đời. Nhân tướng học đã đặt tên cho những bộ phận này căn cứ vào quy luật xem tướng. Qua đó, chúng ta có thể nhận thức được một cách trực quan về những thông tin thể hiện qua từng bộ phận. Trong bài này, chúng tôi sẽ giới thiệu về hệ thống thuật ngữ phổ biến trong thuật xem tướng mặt.

Thiên đình

Thiên đình là gì? Thuật ngữ này có hai cách giải thích như sau:

Thiên đình chủ quản vận sự nghiệp

Thiên đình còn được gọi là cung Quan lộc, chủ quản vận sự nghiệp và vận làm quan của một người.

Nhân tướng học cổ đại xuất phát từ tư tưởng thiên, địa, nhân hoà hợp để phân chia khuôn mặt của conngười thành ba bộ phận, gọi là Tam đình. Vì trời ở trên, đất ở dưới, người ở giữa, nên Thượng đình được gọi là Thiên đình.

Còn một thuyết nữa phân chia phần trán của con người thành bốn bộ phận là Thiên trung, Thiên đình, Tư không, Trung chính. Thiên trung chỉ phần trên của trán, tức từ đường chân tóc xuống dưới khoảng 1 cm. Thiên đình tức khoảng trán từ Thiên trung trở xuống khoảng 1cm. Tư không là khoảng trán từ Thiên đình trở xuống khoảng 2cm. Trung chính là khoảng trán từ Tư không trở xuống khoảng 1 cm.

Cả bốn bộ phận này đều được gọi chung là cung Quan lộc, thể hiện vận sự nghiệp, vận làm quan của một người. Vầng trán cao, đầy đặn, khí sắc sáng sủa, không có sẹo hoặc nốt ruồi xấu, tức là có căn cơ tiên thiên tốt, bẩm sinh đã tràn trề sinh lực, thông minh hơn người, tuổi còn trẻ đã được trưởng bối hoặc cấp trên tán thưởng, cất nhắc. Nhưng nếu có khuyết điểm gì, hoặc màu sắc tối tăm, sẽ gây ảnh hưởng đến vận thế.

Tam đình

Nhân tướng học phân chia khuôn mặt của con người thành ba bộ phận, tức Thượng đình, Trung đình, Hạ đình, căn cứ vào đó để suy đoán về vận mệnh của con người.

Thượng đình, tức khoảng cách từ đường chân tóc đến lông mày, chủ quản vận thế thời trẻ của con người. Nếu Thượng đình vuông vắn rộng rãi, chứng tỏ người này có vận thế thời trẻ rất tốt. Cho dù là xuất thân nghèo hèn hay giàu sang, đều có được một gia đình hạnh phúc, được cha mẹ thương yêu. Còn nếu ngược lại, Thượng

đình hẹp hoặc khuyết lõm, thì vận thế thời trẻ của người này rất gian nan, cho dù được sinh ra trong gia đình giàu có, cũng khó tránh khỏi bất hạnh.

Trung đình là bộ phận từ lông mày đến cánh mũi, quản lý vận thế trung niên của con người. Trung đình nhô cao đầy đặn, chứng tỏ người đó có tuổi thọ lâu dài, sự nghiệp thành công. Nếu Trung đình ngắn, mũi tẹt, biểu thị người này đầu óc chậm chạp,

Tam đình lần lượt chủ quản vận thế các giai đoạn khác nhau

Tam đình lần lượt chủ quản vận thế thuở nhỏ, trung niên và về già của con người. Tam đình đẹp hay xấu không căn cứ vào độ dài ngắn, mà nếu được cân xứng là tốt nhất.

đần độn, sự nghiệp không thể thuận buồm xuôi gió. Người có trung đình ngắn nên bình tâm tĩnh trí đợi qua vận trung niên, không thể cưỡng cầu.

Hạ đình là phần từ phía dưới hai cánh mũi đến cằm, chủ quản vận thế về già của con người. Hạ đình đầy đặn thì có thể an hưởng lúc tuổi già, đầy đủ cả phuc lẫn thọ. Nếu cằm nhọn xương xẩu là dấu hiệu báo trước người đó lúc về già sẽ không có nơi ở cố định, phải sống vất vả. nghèo khổ.

Tam đình tốt hay xấu không phán đoán dựa vào độ dài ngắn mà căn cứ vào sự cân đối. Tốt nhất là các bộ phận đều cân xứng, hài hoà. Trong cuốn sách xem tướng cổ "Ma Y Thần Tướng" có viết: "Tam đình bình ổn, phú quý vinh hoa". Tam đình cân xứng hài hoà, vận thế một đời mới có thể yên ổn thuận lợi.

Ấn đường

Ấn đường nằm phía dưới khoảng giữa hai lông mày chừng 1 cm. Trong thuật xem tướng truyền thống, khoảng 1 cm đường được gọi là "cung mệnh", đại diện cho mệnh cách cơ bản của một người. Ấn đường là nơi tụ họp tinh khí nguyên thần của một người và là bộ phận rất quan trọng của khuôn mặt.

Thông thường, Ấn đường tốt nhất là vuông vức, đầy đặn.

Chiều rộng của Ấn đường tốt nhất là từ một ngón rưỡi đến hai ngón tay. Người có Ấn đường rộng quá hai ngón tay đặt ngang, cá tính tương đối rộng rãi, hướng ngoai, nhưng không có chủ kiến, dễ bị lừa. Người có Ân đường quá hẹp thì bất kỳ việc gì cũngthích xử sự hẹp hòi, không rộng rãi, hay suy tính thiệt hơn, vẻ mặt luôn rầu rĩ chán nản.

Quan sát Ấn đường có thể nhận ra thời vận của một người là tốt hay xấu. Người có Ấn đường màu hồng đào biểu thị sắp có tin vui đến. Nếu có sắc đỏ đậm thì dễ xảy ra tranh chấp với người khác. Xuất hiện sắc đen chứng tỏ sắp có bệnh bộc phát, nên chú ý đến sức khoẻ. Nếu Ấn đường tối tăm nhưng Thiên đình, Trung chính lại có màu sắc tươi sáng, hoặc Ấn đường bóng bẩy nhưng Thiên đình, Trung chính tối tăm chứng tỏ xác suất thành công và thất bại là ngang nhau. Nếu gặp trường hợp này, làm việc gì cũng nên cẩn thận. Hãy nắm bắt cơ hội tốt khi có thể một cách chừng mực và thông qua nỗ lực cố gắng để đạt được thành công.

Ấn đường xám xịt, mọi việc nên thận trọng

Ấn đường phản ảnh thời vận của một người, Ấn đường sắc đỏ biểu thị việc mừng sắp tới, Ấn đường xám xịt biểu thị thời vận không thuận lợi, mọi việc đều nên thận trọng.

Thiên thương

Phần chính giữa chân tóc và đuôi chân mày gọi làThiện thương, và đó chính là vị trí huyệt Thái dương. Thiên thương phản ánh vận thế tài phú của thời kỳ thanh niên.

Thiên thương phản ánh tài vận thời kỳ thanh niên của một người. Người gia cảnh khá từ nhỏ thì có thểhưởng phú quý, do đó "Thiên thương" ý ám chỉ tài phú do trời cho mà có.

Nếu Thiên thương đầy đặn chứng tỏ hoàn cảnh gia đình khấm khá, tổ tiên hoặc thế hệ cha ông có sự nghiệp thành công và tích luỹ rất nhiều của cải cho thế hệ con cháu. Những người có Thiên thương đầy đặn, ngay từ thuở nhỏ đã được hưởng vinh hoa phú quý hoặc thừa kế tài sản lớn của tổ tiên. Vì vậy, gọi là Thiên thương, tức là kho trời, ý nói đây là của cải trời cho. Nhưng nếu chỗ này lõm, hoặc có sẹo, nốt ruồi xấu, chứng tỏ bản thân không nhận được sự hỗ trợ của tiền nhân. Mọi việc cần dựa vào sự cố gắng của bản thân mới có thể có được của cải và thành công.

Đối với nữ, người có Thiên thương rộng không chỉ có thể có được âm trạch của tổ tiên mà còn có thể lấy người chồng tốt và có cuộc sống hôn nhân hạnh phúc mỹ mãn.

Gian môn

Gian môn là vị trí từ hai đuôi mắt kéo sang hai bên, còn gọi là cung phu thê. Thuật xem tướng truyền thống cho rằng Gian môn của đàn ông nên rộng. Ngược lại Gian môn của nữ thì không nên quá rộng vì đó là biểu hiện người nữ có nhu cầu tình dục quá mạnh và điều này có hại đến sức khoẻ của hôn phu.

Quan sát Gian môn có thể dự đoán được về tình hình hôn nhân và đường tình duyên của một người. Nếu Gian môn có vết sẹo, hoặc có nốt ruồi màu xám đen không chĩ cho thấy chuyện tình cảm không ổn định mà thậm chí còn đang phải đứng trước nguy cơ chia rẽ, xuất hiện những quan hệ phức tạp trong chuyện tình duyên. Đặc biệt với phụ nữ nếu có nốtruồi bên phải Gian môn thì khả năng xảy ra ngoại tình rất cao bởi vì họ vốn đa tình, lại có nhu cầu tình dục cao nên khó có thể kiềm chế được bản thân.

Gian môn tốt cần phải đầy đặn, săn chắc, khí sắc sáng sủa. Gian môn khuyết lõm và xương xẩu chứng tỏ việc hôn nhân sẽ gặp trở ngại hoặc đời sống vợ chồng không được tốt. Nếu phần Gian môn quá lồi cho thấy xu hướng tình dục rất mạnh, dễ đứng núi này trông núi nọ.

Gian môn hay còn gọi là cung phu thê

Gian môn phản ánh về đường tình duyên và hôn nhân của một người. Nếu Gian môn có vết sẹo hoặc nốt ruồi đen thì chuyện tình cảm sẽ không thuận lợi, đời sống hôn nhân không dễ hoà hợp.

Sơn căn

Sơn căn chỉ khu vực sống mũi nằm giữa hai mắt và là khởi điểm của mũi. Sơn căn nên rộng, đầy đặn, độ rộng thích hợp nhất là bằng chiều rộng của một con mắt. Sơn căn đại diện cho độ mạnh yếu của gien di truyền

Sơn căn đại diện cho ý chí

Người có Sơn căn nhô cao đầy đặn, không có nếp nhăn, năng lực kháng bệnh và khả năng ứng biến trong trường hợp khẩn cấp đều khá cao. Người có Sơn căn quá thấp hoặc có nếp nhăn cắt ngang, vận khí lúc 41 tuổi không tốt.

bẩm sinh và ý chí của một người. Người có Sơn căn nhô cao đầy đặn, bằng phẳng, không có nếp nhăn có sức chịu đựng bệnh tật rất mạnh, năng lực ứng biến trong trường hợp khẩn cấp cũng khá cao. Người có Sơn căn thấp lõm và nếp nhăn ngang thì thiếu tự tin, làm việc dễ cảm thấy lực bất tòng tâm, cuộc đời nhiều bước thăng trầm. Người Sơn căn xương xẩu không có thịt, tuy ý chí kiên cường, nhưng thiếu quan niệm về luân lý, tính tình cũng không tốt.

Sơn căn đại diện thời vận của một người lúc 41 tuổi. Người có Sơn căn quá thấp, năm 41 tuổi vận khí sẽ rất kém. Nếu Sơn căn có nếp nhăn cắt ngang, thể hiện lúc 41 tuổi sẽ có trắc trở và thử thách tương đối lớn, năm đó làm bất cứ việc gì đều nên cẩn thận.

Ngoài ra, Sơn căn còn gọi là "Cung tật ách" phản ánh sức khoẻ và thể chất của con người. Nếu Sơn căn u ám là điềm báo trước của chứng bệnh đường tiêu hoá. Sơn căn có màu xám nhạt biểu thị cơ thể không khoẻ. Nếu phần Sơn căn xuất hiện gân xanh, có thể là hệ thống tiêu hoá có vấn đề.

Nhân trung

Rãnh lõm chạy từ dưới mũi đến giữa môi trên được gọi là Nhân trung. Nhân trung còn được gọi là Thọ đường và Tử đình. Đó là vì quan sát Nhân trung có thể suy đoán tuổi thọ của một người, đồng thời căn cứ vào mức độ rộng hẹp của nhân trung có thể phán đoán về số lượng con cái.

Nhân trung dài thì tuổi thọ dài, Nhân trung ngắn thì tuổi thọ ngắn. Tuy nhiên nếu một người đang còn trẻ thì Nhân trung cho dù hơi ngắn cũng không nên quá lo

lắng, vì khi tuổi tác dần dần nhiều lên, Nhân trung cũng sẽ dài hơn.

Hình dáng của Nhân trung tốt nhất là dài và sâu, đồng thời nên trên hẹp dưới rộng. Người có Nhân trung như trên tính cách trung hậu, bẩm sinh tinh lực dồi dào, khả năng sinh nở hoàn hảo khoẻ mạnh. Nhân trung của nữ hơi rộng thì sinh con dễ hơn. Nếu Nhân trung có những hình dáng như dưới đây thì nên chú ý nhiều hơn

Nhân trung đại diện vận con cái

Nhân trung thể hiện tuổi thọ và khả năng sinh sản của một người, người có Nhân trung sâu dài tuổi thọ dài, vận con cái tốt.

Nhân trung hẹp

Cá tính cẩn thận, nhát gan, thiếu độc lập, năng lực giao tiếp không tốt lắm.

Nhân trung trên rộng dưới hẹp

Thiếu nhẫn nại và nghị lực, làm việc đầu voi đuôi chuột. Cá tính do dự không quả quyết, ảnh hưởng đến sự phát triển của sự nghiệp.

Nhân trung trên dưới hẹp, ở giữa rộng

Vận thế cả đời thăng trầm, lên xuống không ổn định. Tình trạng sức khoẻ cũng tương tự.

Nhân trung bằng phẳng

Cá tính tương đối ích kỷ, không chủ động giúp người khác. Nữ trong thời gian dậy thì kém phát triển, vào kỳ kinh nguyệt lắm bệnh, quan hệ cha con không thân thiết.

Nhân trung rất ngắn

Dễ buồn rầu, làm việc dễ kích động, quan điểm nông cạn.

Đường pháp lệnh

Hai đường vân đối xứng từ hai bên cánh mũi vươn dài xuống hai bên khoé miệng gọi là đường Pháp lệnh. Đường Pháp lệnh có thể phản ánh uy lực và khí thế của một người. Người có đường Pháp lệnh sâu, dễ được mọi người nghe theo. Người có đường Pháp lệnh nông hoặc không có đường vân Pháp lệnh nói chuyện không ai nghe. Người có hai đường Pháp lệnh vừa sâu vừa dài thường có tài chỉ huy, có được uy nghiêm của người lãnh đạo, vì thế gọi là đường Pháp lệnh. Đường Pháp lệnh tượng trưng cho mệnh lệnh, pháp chế, quyền uy.

Đường Pháp lệnh tốt nhất nên dài và sâu, bao quanh miệng một khoảng rộng. Người có đường Pháp lệnh như vậy phần lớn đều có sự nghiệp thành công và có địa vị cao trong xã hội. Ngoài ra họ cũng sẽ sống lâu, do đó đường Pháp lệnh còn gọi là "Thọ đới".

Thông thường con người vào khoảng 30 tuổi mới xu­ất hiện đường Pháp lệnh. Người sau 30 tuổi mà đường Pháp lệnh vẫn không rõ ràng thì sự nghiệp cơ bản

Đường Pháp lệnh tượng trưng cho quyền lực

Đường Pháp lệnh tượng trưng cho mệnh lệnh, pháp chế, uy quyền. Người có đường Pháp lệnh dài và rộng phần lớn có địa vị xã hội tương đối cao.

không vững chắc và không có gì đáng kể. Người có đường Pháp lệnh bên trái và bên phải dài ngắn không cân xứng có khuynh hướng mang hai tầng tính cách. Sự thiếu Ổn định trong tính cách khiến người đó khó yên tâm theo đuổi một công việc. Đường Pháp lệnh chạy vào miệng thì gọi là "Đằng xà toả khẩu" (rắn khoá miệng). Loại người này dễ gặp vấn đề nguy hiểm về hệ tiêu hoá và hoặc những bệnh không thể ăn uống, trong sách tướng cổ gọi đây là "ngạ tử tướng" (tướng chết đói). Nếu hai bên đường Pháp lệnh chạy vào miệng sau đó lại xuất hiện thì gọi là "Đằng xà xuất khẩu" (rắn ra khỏi miệng), người như vậy có thể tránh được kiếp chết đói, biến nguy thành yên.

Địa các

Địa các chỉ phần cằm của con người, tượng trưng cho tình trạng về tài sản ruộng đất, tiền tài, ý chí,...

Sách có câu: "Được trời giúp thì sang, được đất giúp thì giàu". Vì vậy, nhìn phần trán có thể suy ra vận sự

Địa các đại diện phú quý và vận cao niên

Người phú quý có Địa các rộng, đầy đặn, vận thế tuổi già tốt đẹp. Người có Địa các nhọn, ngắn, nhỏ vận thế về già tương đối kém.

nghiệp của một người, và từ Địa các có thể nhìn ra vận thế tiền tài của một người.

Người có tính tình nhân hậu thì Địa các dài, ngay ngắn, đầy đặn, con cái hiếu thuận, tuổi già có thể hưởng hạnh phúc.

Người có Địa các rộng thuộc nhóm hành động, cá tính cương nghị quyết đoán, rất chủ động.

Nếu Địa các có tì vết, sẽ không có phúc khí kế thừa gia sản của tổ tiên, thiếu sự giúp đỡ của gia đình, việc nhà phải cần đến người khác lo liệu.

Người có xương Địa các phát triển, ý chí kiên cường, có thể chịu được vất vả.

Người có Địa các nhỏ, lòng dạ, phong thái cũng tương đối hẹp hòi. Vận thế khi về già tương đối kém.

Người có Địa các nhọn, ngắn và nhỏ thì cá tính tương đối lập dị, cổ quái, lẻ loi, đa số đơn độc đến già.

Người có Địa các dài và mỏng là người cố chấp không linh hoạt, thường vất vả mà không có lợi ích gì.

Ngũ quan

Ngũ quan dùng để chỉ năm bộ phận trên khuôn mặt con người là mắt, lông mày, tai, mũi và miệng. Trong thuật xem tướng truyền thống thì ngũ quan có cách gọi khác theo chức năng được giao phó. Mắt là Giám sát quan, lông mày là Bảo thọ quan, tai là Thám thính quan, mũi là Thẩm biện quan, miệng là Xuất nạp quan.

Từ "quan" mang nghĩa phụ trách, nắm giữ. "Ngũ quan" chỉ năm bộ phận cơ thể gồm mắt có trách nhiệm quan sát, giám sát; lông mày nắm giữ tình trạng sức khoẻ; lỗ tai chịu trách nhiệm tiếp nhận thông tin" mũiđại diện cho thái độ xử thế của một người và miệng quyết định khả năng diễn đạt của bản thân.

Thông qua việc quan sát ngũ quan của một người có thể phân tích cá tính cơ bản và phán đoán vận thế lành

Ngũ quan thể hiện cá tính

Ngũ quan lần lượt đảm đương những nhiệm vụ khác nhau. Ngũ quan của mỗi người mang hình dáng khác nhau, dấn đến cá tính và vận thế nhân sinh cũng khác nhau.

Mười hai cung

Mười hai cung nguyên là thuật ngữ trong thiên văn dùng để biểu thị 12 lần gặp gỡ của mặt trời và mặt trăng khi di chuyển theo vòng hoàng đạo trong mỗi năm. Sau đó, các nhà nhân tướng học kết hợp tinh tượng học với nhằn tướng, dùng mười hai cung để chỉ mười hai bộ phận tương ứng trên khuôn mặt, đồng thời lấy những nội dung chủ yếu liên quan tới mệnh thế nhân sinh phân thành mười hai danh mục. Mười hai bộ phận này được dùng để suy đoán hoạ phúc lành dữ của con người.

Cung Mệnh: chỉ bộ phận Ấn đường nằm giữa hai lông mày. Cung Mệnh ảnh hưởng đến vận thế căn bản của một người.

Cung Tài bạch: nằm ở đầu mũi, có quan hệ đến vận thế tài phú của một người.

Cung Huynh đệ: là cặp lông mày, có íiên quan đến quan hệ anh em.

Cung Thê thiếp: ở về phía hai đuôi mắt, cho biết về mối quan hệ vợ chồng.

Cung Tử tức: nằm ở phía dưới mắt, cho biết về đường con cái, xem có tuyệt tự hay không.

Cung Tật ách: chỉ bộ phận "Sơn căn" giữa hai mắt chobiết tình trạng sức khoẻcủa một người.

Cung Thiên di: nằm ở hai bên góc trán phía trên, có liên quan đến trạng thái lành dữtốtxấucủaviệcdi chuyển.

Cung Nô bộc: nằm phía dưới hai bên má, có liên quan đến việc kết bạn, giao tiếp và sự hỗ trợ của cấp dưới trong công việc.

Đồ hình mười hai cung

Mười hai cung được đặt tên theo các nội dung chủ yếu trong cuộc sống. Tướng mạo của mười hai cung tiêu biểu cho thời vận con người trên phương diện mà cung đó tượng trưng.

Cung Quan lộc: nằm ở trung tâm điểm của trán, liên quan đến vận thế trên phương diện sự nghiệp, quan tước.

Cung Điền trạch: nằm ở khoảng giữa mắt và chânmày, quan hệ đến sự tốt xấu của gia vận.

Cung Phúc đức: nằm ở phía trên phần cuối của cặp lông mày, quan hệ đến sự tốt xấu của tài vận và phúc khí.

Cung Phụ mẫu: cung Phụ nằm ở góc trán phía trên bên trái, cung Mẫu nằm ở góc trán phía trên bên phải, có liên quan đến duyên phận tốt xấu giữa cha mẹ.

Thông qua tướng mạo của mười hai cung có thể phán đoán vận mệnh, tiền đồ của một người. Vận thế tốt xấu tại các phương diện trong cuộc sống có thể phán đoán được qua việc quan sát mười hai cung tương ứng.

Cách lựa chọn phi tần của các vị hoàng đế cổ đại

Tại Trung Quốc cổ đại, hoàng đế là những vị chúa tể gồm thâu thiên hạ, sở hữu thế lực, của cải khổng lồ, quyền uy tuyệt đối. Do đó các vị hoàng để thường nạp nhiều phi tần để có nhiều con cháu nối dõi nhằm duy trì vương nghiệp.

Tự xưa đến nay, các quý tộc vương thất đều đặc biệt xem trọng khuôn mặt. Vì vậy, việc chọn phi nạp thiếp quan trọng như thế tuyệt đối không thể tách rời việc coi tướng mặt. Người mang trọng trách tiến phi cho hoàng đế bắt buộc phải quan sát tỉ mỉ ngũ quan, tóc, da, ngữ điệu, dáng đi,... của những xử nữ tiến cung, trong đó "nốt ruồi đón lệ" là điều kiêng kỵ nhất.

Theo truyền thuyết dân gian, Vương Chiêu Quân vốn là một cô gái xinh đẹp, thông minh khác thường, cầm kỳ thi hoạ đều tinh thông. Chiêu Quân vốn người chính trực, sau khi được chọn tiến cung, từ chối hối lộ dẫn đến kết quả bị hoạ sư Mao Diên Thọ do tham của cải mà âm mưu điểm "nốt ruồi đón lệ" lớn trên bức chân dung, biến nàng thành tướng khắc phu. Đương nhiên, hoàng đế vô cùng kiêng kỵ điều này. Vì vậy, Vương Chiêu Quân bị đày vào lãnh cung ba năm, không có duyên gặp vua.

Vào năm 33 trước công nguyên, thủ lĩnh Hung Nô ở phương Bắc là Hô Hàn Tà chịu thần phục nhà Hán và xin được cầu thân. Khi Hán Nguyên Đế tuyển chọn trong phi tần hậu cung thì Vương Chiêu Quân chủ động xin được cống Hồ. Tương truyền khi Hồ Hàn Tà gặp Chiêu Quân, thấy nàng xinh đẹp khác thường, thì vô cùng say đắm, Nguyên Đế cũng giật mình sững sờ không ngờ hậu cung vốn có người dung mạo xinh đẹp như vậy. Hán Nguyên Đế hối hận vô cùng, muốn giữ lại nhưng không thể thất tín, bèn thưởng Chiêu Quân những vật quý giá như hai vạn tám ngàn xấp gấm lụa, một ngàn sáu vạn cân bông cùng vàng bạc, đá quý..., và đích thân tiễn ra ngoài Trường An vài dặm.

Sau khi Chiêu Quân ra cửa ải, Hán triều và Hung Nô hai nước đoàn kết hoà thuận, ngoài biên ải luôn được hoà bình thịnh vượng trong mấy mươi năm.

Xem thêm: Xem tướng mặt

Nguồn:
0