Thái Bình Thiên Quốc chiến tranh toàn sử (Bài 2)
Tác giả Hoắc Chi Thanh Đỗ Trung Thành dịch 2.Sự lạc hậu hủ bại của hệ thống quân sự. Trong chiến tranh, quân đội là nguồn tài nguyên nhân lực tham gia trực tiếp, trong đó tố chất, trang bị, sĩ khí, động viên và chỉ huy, cung ứng hậu cần là những yếu tố tổng hợp cấu ...
Tác giả Hoắc Chi Thanh
Đỗ Trung Thành dịch
2.Sự lạc hậu hủ bại của hệ thống quân sự.
Trong chiến tranh, quân đội là nguồn tài nguyên nhân lực tham gia trực tiếp, trong đó tố chất, trang bị, sĩ khí, động viên và chỉ huy, cung ứng hậu cần là những yếu tố tổng hợp cấu thành sức chiến đấu, liên quan tới sự thành bại trên chiến trường.
Quân thường trực của Thanh triều có 25 vạn quân Bát kỳ và 66 vạn quân Lục doanh. Tố chất yếu kém, không chịu nổi chiến thủ (công và thủ). Bạch Liên giáo khởi nghĩa, Bát kỳ và Lục doanh các doanh đại bại liên tiếp, Thanh đình phải chiêu mộ số lượng lớn hương dũng mới dập tắt được. Trong chiến tranh nha phiến, điều động tới hơn 10 vạn quân trú phòng ở các tỉnh, hao tổn hết hơn 20 triệu lạng bạc mà không thắng nổi một trận lớn nào. Có thể thấy, sức chiến đấu của quân Thanh là rất yếu kém, Bát kỳ và Lục doanh với danh nghĩa là quân thường trực, mỗi năm tiêu phí luơng hưởng hết hơn 20 triệu lạng bạc, không chỉ không có sức bảo vệ quốc phòng, ngăn chặn giặc ngoại xâm mà cũng khó đảm nhiệm được nhiệm vụ quân sự trấn áp các cuộc khởi nghĩa nông dân quy mô lớn.
Sách Khang Hy hội điển chép: “Binh chế quốc gia được xây dựng hoàn thiện nhất. Có quân Bát kỳ đồn trú bảo vệ chung quanh, lại có quân Lục doanh chia ra đóng giữ tấn địa (chỉ khoảnh đất nơi quân đội trú phòng thời Minh Thanh).” Bát kỳ phân chia theo dân tộc, có 3 nhánh là Bát kỳ Mãn Châu, Bát kỳ Mông Cổ và Bát kỳ Hán quân, hình thức tổ chức đặc thù của họ là quân sự và chính trị hợp nhất, “Biên chế người thành các kỳ, tức biên chế kỳ thành quân đội, người thuộc các kỳ đều có thể là lính.” Hiển nhiên, đây là chức nghiệp quân đội cố định và thế tập do các dân tộc tổ chức và xây dựng.
Việc trú phòng của quân Bát kỳ chia làm bốn loại: vùng ven đô, đông tam tỉnh, các tỉnh trực thuộc (bao gồm vùng biên cương), phiên bộ (chỉ các khu vực nội ngoại Mông Cổ, Tân Cương, Thanh Hải, Tây Tạng dưới thời nhà Thanh). Nhiệm vụ là cảnh bị kinh sư, khống chế biên cương, phòng trú các thành thị lớn, giám thị người Hán và quan lại văn võ địa phương. Bọn họ thường cư trú trong nội thành, chiếm cứ vùng đất màu mỡ ở ngoại ô để giải quyết vấn đề sinh hoạt. Quân Bát kỳ là một lực lượng đe dọa bằng vũ lực, tự thành hệ thống, trực thuộc hoàng đế chỉ huy điều động, văn võ các nơi không đươc tự tiện điều động và can dự. Quân hưởng của họ cũng tốt hơn Lục doanh, một năm lĩnh 48 hũ gạo (1 hũ = 10 đấu, sau sửa thành = 5 đấu), lương tháng thì 3-4 lạng bạc, gấp đôi Lục doanh. Kỵ binh Bát kỳ Mãn Mông tương đối đông, Bát kỳ Hán quân thì bộ binh là chủ lực, hỏa khí doanh trong ngoài kinh sư thì theo cách thức cũ là lấy những đồ hỏa khí như súng pháo làm chủ. Nam giới tuổi thành niên mang kỳ tịch đều là nguồn lính của Bát kỳ. Nhưng Thanh đình quy định hạn ngạch về binh lính, người Mãn thừa thãi chỉ là lính dự bị. Thanh đình vốn định thông qua việc nghề nghiệp hóa quân sự cho người trong kỳ, để Bát kỳ trở thành lực lượng giữ gìn bảo vệ sự ổn định lâu dài của triều đình thống trị, trấn áp sự phản kháng của các dân tộc khác cũng như duy trì tố chất quân sự dũng mãnh uy vũ thiện chiến của các kỳ. Nhưng sự phát triển của lịch sử đi ngược với nguyện vọng của kẻ thống trị. Đặc quyền đã ăn mòn người trong kỳ, do không làm việc, lao động sản xuất, người trong kỳ (chủ yếu là người trong Mãn tộc) dần dần biến chất, trở thành một tầng lớp ký sinh phong kiến. Một phương diện, số ít người Mãn trong kỳ lập được chiến công, được phong quan tước, gia nhập vào hàng ngũ thống trị, trở thành những kẻ trong kỳ được phân phát lợi ích. Một phương diện khác, đại đa số người trong kỳ do quyền lợi kinh tế có hạn, khó có thể đáp ứng được sinh kế, lại không chịu lao động sản xuất hoặc tự mưu cầu nghề nghiệp, cuộc sống ngày càng nghèo khó. Giữa thời Gia Khánh, tráng đinh người Mãn trong Bát kỳ có ước khoảng 50 vạn người, nếu như tính cả già trẻ và nữ giới thì có 150 vạn người, tăng thêm rất nhiều so với thời kỳ đầu triều Thanh, sinh kế ngày càng trở nên khó khăn. Không ít người trong kỳ đã bắt đầu kinh doanh sản xuất một số ngành nghề, mưu cầu sinh kế, chế độ Bát kỳ dần bị phá vỡ, sức chiến đấu của người Mãn bị thoái hóa nghiêm trọng, biến chất thành khối u ác tính trong cơ chế quân sự Thanh triều, bám vào cơ thể triều đại phong kiến Mãn Thanh, hút số lượng lớn quân phí và gây nguy hại cho cơ thể khỏe mạnh từ bên trong. Tuy trong triều có người đề xuất một vài biến pháp đối với chế độ Bát kỳ, nhưng triều đình và quý tộc Bát kỳ vốn là kết cấu một hồn hai xác, xu thế suy thoái của nó là không thể ngăn chặn, biến cách chẳng chút hiệu quả. Những năm Khang Hy, các kỳ thiết lập quan khố, do bộ Hộ cấp tiền, sắp xếp sinh kế cho người trong kỳ, từ năm 1703 đến năm 1727, tổng cộng chi 13.000.000 lạng, bình quân mỗi nhà được bổ trợ mấy trăm lạng nhưng không bố trí bất cứ công tác sản xuất gì, chỉ sau 1-2 năm, toàn bộ số tiền bổ trợ đã tiêu sạch sành sanh. Thời Ung Chính, từng bố trí di chuyển đóng quân khai hoang mưu sinh cho người trong kỳ ở đông tam tỉnh, vua Càn Long chỉ dụ cho phép di chuyển hơn 3000 kỳ đinh. Nhưng bọn họ không nghề nghiệp đã lâu, phóng đãng đã thành tính, không muốn lao động, bán dần gia sản rồi lại quay về Bắc Kinh sống ký sinh, việc di dân khai khẩn lại trở thành không thực tế.
Lục doanh là sự kế thừa phát triển của quân chế của Minh triều, “có kị binh, thủ binh và chiến binh. Thủ chiến đều là bộ binh, ngoại ngạch, ngoại ủy (là tên võ quan thời nhà Thanh, lúc đầu là cắt cử ngoại ngạch, sau là chế định. Ngoại ủy thiên tổng, chính bát phẩm; ngoại ủy bả tổng: chính cửu phẩm; ngoại ngạch ngoại ủy; tòng cửu phẩm) là kị binh. Tổng binh chế thiên hạ là 66 vạn người. Tỉnh An Huy có ít quân nhất, Phúc Kiến và Quảng Đông có thủy sư vì vậy có nhiều quân nhất, sau đó đến Cam Túc”(1) (Thanh sử cảo, binh chí nhị, quyển 131) Đây là quân thường trực người Hán, chỉ huy thì Mãn Hán đều có thể đảm nhận. Trên cơ bản thì đó cũng là chức nghiệp quân đội thế tập binh sĩ thì xếp vào binh tịch, phân biệt còn khắt khe hơn hộ tịch của người Hán bình thường. Cũng giống như Bát kỳ, những tráng đinh được liệt vào binh tịch là hậu bị cho Lục doanh. Thế nhưng, binh ngạch ở các doanh là cố định, tất cả tráng đinh trong mỗi hộ không thể tòng quân lĩnh lương, chỉ được một người, thường là cha về thì con kế tục hoặc anh chết thì em đến, chỉ có thể bố trí một người, tráng đinh khác thực tế là kẻ thất nghiệp, đành phải đi làm những việc khác. Theo sự gia tăng của nhân khẩu, tráng đinh thất nghiệp ngày càng nhiều, tiền lương ít ỏi khó có thể duy trì sinh kế, bị ép phải lưu lạc khắp nơi, tự mưu cầu sinh kế, ngay cả chính đinh cũng không nuôi nổi gia đình, thường phải rời doanh đi làm những việc khác, chiếm đa số là thủ công nghiệp, buôn bán, phu khuân vác. Như vậy, “lính đã bỏ doanh tìm sinh kế, không thể diễn tập đúng ngày; phân tán ở các nhà trọ trong các thị tập, không thể gọi là lập tức tập hợp. …tâm trí vì thế mà phân tán, tinh lực do đó mà mỏi, kỹ năng do đó mà sụt giảm.” (Tả Khác Tĩnh, tấu cảo, sơ cảo, quyển 34) Rất nhiều binh sĩ rời doanh, tạo nên tình trạng trong doanh thiếu hụt rất nghiêm trọng, rất nhiều doanh chỉ còn một nửa ngạch. Sĩ quan các cấp không truy cứu chuyện này, lợi dụng tham ô, ăn lương hưởng của “lính ma”. Nếu như thượng cấp kiểm tra điểm danh thì tạm chiêu mộ bọn vô lại, mạo danh thay thế, lừa dối cho qua đợt kiểm tra, khiến cho việc thao luyện chỉnh đốn đều không thực tế.
Đẳng cấp phong kiến và chế độ tông pháp là sợi dây duy trì quan hệ nội bộ của quân Thanh. Chỉ huy thì cắt xén lương hưởng, ngược đãi, coi binh sĩ như nô dịch, thường cấu kết với quan lại địa phương sai binh sĩ làm người hầu, thậm chí bắt họ canh tác cho sĩ quan, khiến họ thành nông nô biến tướng. Tình trạng lính tráng đói rét, khốn cùng trở nên phổ biến. Quan binh đối lập như nước với lửa, tồn tại mâu thuẫn giai cấp gay gắt. Binh sĩ đối với triều đình cực kỳ lạnh nhạt, không muốn bán mạng đổ máu cho triều đình và quan lại. Mục đích tòng quân của họ chỉ là lĩnh lương, nuôi gia đình, vì thế khi có chiến sự chỉ lo bảo toàn tính mạng, hiếm khi xung phong hãm trận. Thanh đình trong thời gian dài không thấy có sự giáo dục bồi dưỡng nhân tài quân sự, không có cơ cấu giáo dục quân sự chuyên môn, tình trạng sĩ quan thiếu lý luận quân sự rất phổ biến, đề bạt đội ngũ nòng cốt, thế tập hoặc võ khoa do ý chí của trưởng quan quyết định, trình độ văn hóa thấp, chiến lược chỉ huy và kiến thức chiến thuật yếu kém. Do đó, mạng lưới quan hệ trong quan trường trở thành nhân tố chủ yếu của việc thẩm định, tuyển chọn thăng chức và điều chuyển. Thanh đình nhiều lần dụ lệnh chỉnh đốn, nhưng chẳng chút tác dụng, ngược lại còn trầm trọng hơn.
Để duy trì sự thống trị của triều đình phong kiến, Thanh đình không chịu cắt đi cái ung nhọt ác tính này, kết quả là Lục doanh và Thanh triều cùng đi vào con đường suy vi và trầm luân.
Thanh triều duy trì lực lượng quân sự khổng lồ cơ bản là để giữ trật tự trị an trong nước, còn chức năng quốc phòng của nó thì ít khi được nghĩ tới. Vì thế, suy tính hàng đầu là khống chế và sai khiến được lực lượng vũ trang Kỳ Lục. Bát kỳ là vốn của Thanh đình khi lập nghiệp, tự nhận là gia nô của hoàng đế, được hưởng các đặc quyền và đãi ngộ rất tốt, có tính dân tộc mạnh mẽ, ưu việt bao trùm lên Lục doanh. Thời chiến, do Lục doanh chiến đấu nơi tiền tuyến, Bát kỳ ở phía sau đốc chiến, thường tham lam cướp công của Lục doanh để lĩnh thưởng. Tướng lĩnh Bát kỳ tạo ra hệ thống của riêng mình, không nghe sự chỉ huy của các đại thần người Hán, tự tiện tiến thoái, gây tổn hại cho toàn cục. Lục doanh phản pháo mạnh liệt, thời bình thì đố kị với sự đãi ngộ đặc biệt mà Bát kỳ được hưởng, khi có chiến sự thì chậm chạp tiêu cực, không muốn đi đầu trận nên rất khó phát huy được sức chiến đấu. Thanh đình quy định, Bát kỳ tập trung trú phòng, khống chế các trọng trấn quan trọng và biên cương, là lực lượng chiến đấu cơ động; Lục doanh thì rải rác, phân tán, hệ thống chỉ huy tản mát, đốc, phủ, đề, trấn, hiệp các nơi có tiêu doanh sở thuộc, các nơi đồn trú đều có khu vực phòng thủ cố định, gìn giữ trị an khu trực thuộc, đôi bên không chỉ huy nhưng kiềm chế lẫn nhau, đốc, phủ muốn điều động các doanh trại quân trú phòng trong tỉnh mình thì phải được hoàng đế phê chuẩn, không được tùy tiện hành động. Như vậy, Kỳ Lục phân bố kết hợp đan xen giữa trọng điểm và toàn diện, cấu thành mạng lưới trấn áp vũ trang, khống chế chặt chẽ vùng diện tích bao la của một tỉnh. Đồng thời, chủ lực Bát Kỳ tập trung ở các khu vực quanh Bắc Kinh, trọng tâm là bảo vệ an toàn cho đầu não của Thanh đình, giữ nguyên trạng thái lực lượng “trong nặng ngoài nhẹ” trong vấn đề khống chế và cai quản.
Về thể chế chỉ huy, phàm là những công việc về chiến lược quyết sách, bổ xung hậu cần, vận chuyển quân lương, bổ nhiệm hay bãi nhiệm tướng soái, điều hành quân đội đều do hoàng đế quyết định, thông qua những người giúp việc ở quân cơ xứ, đưa ra chỉ dụ do bộ Binh, bộ Hộ và đốc phủ, Bát kỳ tướng quân (đô thống) các tỉnh chấp hành thực thi. Thanh đình thi hành nguyên tắc “lấy văn chế võ” để phòng ngừa và tiêu trừ việc kiêu binh mãnh tướng cát cứ xưng hùng, ngăn chặn triệt để họa phiên trấn. Vì vậy, vào thời bình, các đơn vị trú phòng không được phép tự ý rời khỏi nơi đồn trú. Thời chiến, thì do hoàng đế hạ thượng dụ, điều tập số ngạch binh lực nhất định các nơi, gặp chuyện thì tổ chức thành binh đoàn cơ động, lại sai trọng thần chỉ huy các quân, chỉ huy chiến sự ở tiền tuyến. Hoàng đế và quân cơ đại thần tọa trấn Tử Cấm thành, căn cứ vào tấu báo của tướng soái tiền phương để quyết sách và chỉ huy chiến tranh. Mệnh lệnh tác chiến thì dùng thượng dụ qua quân cơ xứ truyền đạt xuống, tướng soái tiền tuyến phải chấp hành, nếu như không thiết thực, nhất định phải gửi tấu sớ xin sách lược mới, phê chuẩn mới được coi là hợp pháp. Tấu sớ và thượng dụ đều do người của dịch trạm binh bộ chuyển phát, tương đối nhanh mỗi ngày 600 dặm. Nếu khu chiến ở xa, tấu, dụ qua lại tốn nhiều thời gian, tình thế chiến trường và chiến cục trong chớp mắt thay đổi, chỉ dụ phương lược đến trễ thường là không còn phù hợp, lại phải tấu xin thay đổi phương lược. Vì thế, chỉ đạo trung ương triều đình thông thường là lạc hậu với tình thế quân sự hiện thực, nhưng đối với tướng soái tiền tuyến rất có chức năng uy hiếp và tạo sự cân bằng, đồng thời, triều đình khống chế các chiến lược hậu bị như lương hưởng, trang bị, binh lực, đủ để khống chế quyết sách chiến lược của tướng soái nơi tiền tuyến. Đồng thời, hoàng đế đặc biệt quan tâm đến hành động chiến tranh có quy mô tương đối lớn, thường sai phái trọng thần làm khâm sai đại thần thay mặt triều đình sắp xếp quân vụ nơi tiền tuyến. Nhưng khâm sai đại thần đa phần là quan văn, trong tay không có lực lượng vũ trang trực hạt, không dễ thống suất và sai khiến được kiêu binh mãnh ướng đến từ các tỉnh khác, dẫn đến cục diện bị động quân lệnh bất hành, chỉ huy bất động. Còn quân đội tiền tuyến đến từ các tỉnh khác nhau, có ranh giới Kỳ Lục, phiên hiệu rườm rà, binh tướng không biết nhau, trên dưới xa cách, thường chỉ lo cho bản thân, rất khó có được sự phối hợp với nhau, càng không dễ gì nghe hiệu lệnh khâm sai đại thần. Gặp địch hội chiến, đa phần chỉ cầu sách lược bảo vệ thân mình, né tránh chiến đấu, vì thế những kẻ xung phong hãm trận rất ít, còn kẻ lâm trận bỏ chạy thì rất nhiều. Luận từ tố chất quân sự, hoàng đế, quân cơ đại thần, khâm sai, đốc phủ xuất thân văn nhân, đã không có kiến thức quân sự, càng ít kinh nghiệm thực chiến, chỉ có thể trong tình thế lâm trận mới học tập và thể nghiệm, dần dần thích ứng với chiến tranh, phần lớn chiến lược chỉ huy sai lầm là điều khó tránh khỏi. Tổng binh, đề, trấn thì có kinh nghiệm thực chiến nhất định, nhưng lại thiếu tài cán chỉ huy chiến lược toàn cục, nhưng càng khinh rẻ coi thường sự vô tri của khâm sai quan văn và đốc phủ địa phương, thường chỉ bảo tồn thực lực, tự làm theo ý mình, khó có thể chế ngự, rốt cục gây hại cho chiến cục. Có thể thấy, loại thể chế chỉ huy cũ kỹ, trì độn và hủ bại này cơ bản không thể thích ứng với yêu cầu cấp bách của tình trạng chiến tranh, các mắt xích của nó đều tồn tại tệ nạn và yếu điểm chí mạng, đều có thể đưa đến những hậu quả tiêu cực nghiêm trọng cho chiến tranh. Từ khởi nghĩa Bạch Liên giáo ở Xuyên Sở Thiểm, tới chiến tranh nha phiến, thể chế chỉ huy vận hành không tốt, tệ nạn bùng phát, rất nhiều trí thức đề xuất một số kiến nghị thay đổi, nhưng trung ương đối với vấn đề này thờ ơ, không nghĩ đến việc sửa sang, cho nên thể chế ngày càng hủ bại mục nát, cuối cùng dưới sự công kích mạnh mẽ của cuộc vận động Thái Bình Thiên Quốc, trên bờ vực cục diện tan rã và biến chất.
Hệ thống cung ứng hậu cần quân sự lại càng hủ bại cùng cực. Trong đó, quân hưởng mỗi năm chi hơn 20.000.000 lạng bạc, là trọng tâm của công tác hậu cần. Triều đình nhà Thanh quy chế hóa việc vận chuyển lương tiền và hiệp hưởng (quy định của triều đình về việc lấy tiền thuế từ các tỉnh giàu có bù đắp cho các tỉnh nghèo), hình thành cơ chế vận hành vận chuyển và trích chuyển quân hưởng, đây cũng là biện pháp quan trọng Thanh đình dùng để duy trì lương hưởng cho quân đội và cân bằng thu chi tài chính cho toàn quốc. Triều đình quản lý rất chặt chẽ việc này, mỗi năm xuân thu hai vụ, các tỉnh phải báo lên số tiền tồn kho, thông qua bộ Hộ thẩm tra đối chiếu và dự toán chi dùng của cả năm, chỉ định việc điều vận tiền bạc từ các tỉnh dư dả sang các tỉnh còn thiếu. Vì một năm 2 lần vận chuyển và trích chuyển quân hưởng vào tháng 4 và tháng 9 âm lịch nên gọi là hiệp hưởng. Nơi cần nhiều lương nhất là kinh thành, mỗi năm cần khoảng hơn 6.000.000 lạng để duy trì nuôi quân đồn trú ở kinh sư và ba tỉnh miền đông bắc. Các nơi khác vì số quân đồn trú và tiền thu được từ thuế không đồng nhất, mỗi năm phải có số lượng hiệp hưởng nhất định dùng để điều phân phối cho các tình. Số hiệp hưởng mà các tỉnh phải nộp vào năm Khang Hy thứ 11(1672) là: Vân Nam hơn 1.700.000 lạng, Phúc Kiến hơn 1.600.000 lạng, Quảng Đông hơn 1.200.000 lạng, Quý Châu hơn 500.000 lạng, Quảng Tây hơn 170.000 lạng. Thanh đình có quy định về các vùng miền và mức hiệp hưởng cho các tỉnh có tài chính dư dả, nhưng khi thực thi thì do nhiều yếu tố ảnh hưởng, hiệp hưởng mỗi năm của các tỉnh “thu nhập đầy đủ của năm không có định ngạch”, còn trong án địa đinh thì tới bộ hộ thanh toán.
Về phương diện cung ứng lương thực, quân đội ở kinh sư thì nhận lượng thực từ các tỉnh miền nam chuyển lên còn quân đội ở tỉnh nào thì do tỉnh đó tự giải quyết, thường thì không hỗ trợ lương thực cho nhau.
Về mặt quản lý, việc hiệp hưởng nên do bộ Hộ chấp chưởng, các tỉnh thì do ty bố chính cụ thể thực thi, theo chỉ thị của bộ Hộ hoàn thành nhiệm vụ hiệp hưởng của tỉnh mình hoặc tiếp nhận hiệp hưởng từ các tỉnh sung túc. Đốc, phủ phải hiệp trợ và đốc thúc ty bố chính để đạt được số lượng và hoàn thành công tác vận chuyển hiệp hưởng, không được ứng tạm thời, giữ lại hoặc thiếu hụt. Phàm là hiệp hưởng của tỉnh khu, định mức và tuyến đường đều do hoàng đế ra thượng dụ quyết định, các đốc phủ các tỉnh chỉ biết chấp hành, không được vi phạm. Gặp khi có chiến sự, thống soái ở tiền tuyến tiết chế quan binh các tỉnh khu nào thì lương hưởng, quân nhu đều do tỉnh khu đó cung cấp theo mức đã định, quân phí tăng thêm thì do bộ Hộ trực tiếp chuyển tới hoặc thông qua thượng dụ để các tỉnh khác trích chuyển. Thống soái không được quyền trù tính mà do bộ Hộ quản lý tính toán chung, hạn chế quyền lực của đốc phủ địa phương và tướng soái nơi tiền tuyến, để duy trì kết cấu trung ương tập quyền trong nặng ngoài nhẹ.
Vào thời bình, quy chế hiệp hưởng này vẫn có thể vận hành bình thường nhưng trong những năm tháng có chiến tranh thì lập tức vấp phải sự quấy nhiễu và phá hoại. Thời kỳ đầu triều Thanh, chiến sự chủ yếu diễn ra tại các tỉnh khu vùng biên cương, các tỉnh trong nội địa vẫn trong cảnh yên bình, kinh tế và chính trị ổn định, trị an giao thông vận tải thông suốt vì thế lương thực, quân nhu, lương hưởng đều ùn ùn ra tiền tuyến tiếp tế cho quân đội, có tác dụng rất quan trọng, đảm bảo chắc chắn thắng lợi cho nhiều cuộc chiến, tăng cường sự thống trị ở các tỉnh khu biên cương. Nhưng đến thời kỳ Gia Khánh – Đạo Quang, chiến loạn không ngừng, mất mùa liên tiếp, kinh phí chi tiêu rất lớn nhưng việc trưng thu thuế ruộng đất và lao dịch gặp khó khăn, quốc khố trước nỗi lo trống rỗng. Thanh triều trước đó đã có chỉ dụ “mãi không tăng thuế”, lấy mức thu thuế ruộng đất và lao dịch của năm Khang Hy thứ 50 (1711) làm tiêu chuẩn trưng thu cho toàn quốc, vào những năm bình thường thì vẫn có thể cân bằng tài chính nhưng khó có thể duy trì khi có chiến tranh hoặc gặp thiên tai mất mùa. Hơn nữa do kinh tế của các tỉnh phát triển không đồng đều, công tác hiệp hưởng càng đè nặng nên các tỉnh tương đối giàu có thuộc hạ du sông Trường Giang, trong đó nam Giang Tô, bắc Triết Giang gần như gánh vác thuế của một nửa thiên hạ, cực kỳ nặng nề. Một khi chiến tranh nổ ra ở các tỉnh khu nội địa, đặc biệt là lan đến vùng Giang Nam, ảnh hưởng đến việc sản xuất và trưng thu thuế hoặc quấy nhiễu an toàn trên các tuyến giao thông, chế độ hiệp hưởng lập tức vấp phải sự uy hiếp nặng nề, việc cung cấp lương hưởng quân nhu cho quân đội nơi tiền tuyến sẽ gặp kó khăn. Ở cuộc chiến nha phiến lần thứ nhất, quân Anh xâm nhập vào sông Trường Giang, cắt đứt đường thủy vận lương, đây chính là nguyên nhân lớn nhất khiến vua Đạo Quang phải khuất phục. Lúc đầu khi cuộc chiến tranh Thái Bình Thiên Quốc mới phát triển ở Quảng Tây, Thanh đình vẫn có thể tiếp tế quân nhu bình thường, nhưng sau khi tiến quân vào Lưỡng Hồ, Tam Giang, định đô ở Kim Lăng, cả hệ thống hiệp hưởng rơi vào hỗn loạn và kiệt quệ. Do chế độ hiệp hưởng bị bãi bỏ, các biện pháp bổ xung nguồn thu như quyên góp, li kim (một thứ thuế nhà buôn, cứ trăm phần lấy năm phần gọi là li kim) ra đời đúng thời cơ, các tập đoàn quân đội như Tương Hoài thừa dịp loạn trỗi dậy, một mặt ngửa tay xin hiệp hưởng triều đình, mặt khác tự trù nguồn lương tiền, dây máu ăn phần quyền sở hữu tài sản trong chiến khu. Bản chất chế độ hiệp hưởng đã thay đổi, làm suy yếu nghiêm trọng cơ cấu trung ương tập quyền, lại khiến quân Tương Hoài thay thế vị trí của quân Kỳ Lục, trở thành đối thủ đáng gờm của quân Thái Bình. Cuộc vận động Thái Bình Thiên Quốc vì thế phải đối mặt với những thử thách đấu tranh quân sự càng nặng nề.
Cơ cấu quản lý cụ thể hậu cần cho tiền tuyến là thiết lập lương đài tạm thời, quan viên chủ quản do Thanh đình phê chuẩn, chuyên phụ trách kinh lý thu chi và quản lý toàn bộ quân nhu, lương tiền, vật tư, xây dựng hệ thống quản lý tài vụ riêng biệt, nếu như chiến trường phân tán, chiến tuyến dài thì tương ứng xây dựng các phân đài, do tổng lương đài quản hạt. Tất cả khí tài quân nhu, lương tiền của các đội quân đều do lương đài thu chi, việc vận chuyển vật tư, lương tiền, các khoản tự trưng thu của các tỉnh và trung ương cũng đều do lương đài đảm nhận, mọi việc đều phải lập sổ sách, lưu giữ hóa đơn chứng từ, thực thi theo quy phạm tài vụ và kế toán, định kỳ gửi báo cáo tinh hình thu chi về cho bộ Hộ. Quân vụ hoàn thành, lương đài phải lập sổ sách cụ thể, thông qua bộ Hộ thẩm định chứng từ, chương mục, tấu trình hoàng đế phê chuẩn thanh toán. Đồng thời, quân phí hao tổn của các châu huyện trong vùng chiến sự cũng do lương đài căn cứ vào sổ sách chi trả, không được phép tự ý sử dụng tiền trong quốc khố. Xét về cơ chế và quy trình thì rất nghiêm ngặt, thực tế thì tham ô thụt két quân lương đã là chuyện thường thấy. Các quan viên văn võ đều coi chiến tranh là cơ hội tốt để thăng quan phát tài. Thời chiến cần số lượng lớn ngân hưởng, lương thực, quân tư, vì quân tình khẩn cấp, thủ tục qua quýt hỗn loạn, khó có thể đối chiếu kế toán vì vậy tướng soái, lương đài, quan lại địa phương cấu kết, giở thủ đoạn ám muội, tham ô biển thủ, lại dùng chứng từ sổ sách giả để thanh toán. Đồng thời phải hối lộ quan lại ở bộ Hộ để khi xét duyệt sẽ dễ dàng cho qua, sau đó việc lương tiền thiếu hụt coi đã xong. Như vậy, việc thanh toán thu chi đã trở thành một việc làm theo phép, tham ô quân hưởng đã trở thành một thứ “luật lệ” trong thời chiến, chốn quan trường chẳng ai còn lạ lẫm. Có lúc vì ăn chia không đều, sự việc bại lộ, trở thành vụ án lớn, số người liên đới rất nhiều.
Chiến tranh đem đến cho nhân dân tai họa nặng nề nhưng lại mang về cho quan viên lớn nhỏ những khoản tiền bất nghĩa khổng lồ. Sau khi phong trào Thái Bình Thiên Quốc thất bại, các tướng lĩnh Tương Hoài ai cũng thăng quan tấn tước, mua sắm rất nhiều ruộng đất, trở thành tầng lớp phú hào quý tộc mới nổi, chính là những ví dụ điển hình.
Vũ khí của quân Thanh cũ kĩ, kỹ nghệ lạc hậu, trình độ vẫn giậm chân tại chỗ ở mức độ như triều Minh, đồng thời huấn luyện thì chỉ chú trọng hình thức, thiếu tính thực tế cho nên tố chất quân sự yếu kém, không thể thích ứng với cuộc chiến tranh quy mô chính quy.
Xét về mặt binh khí, quân Thanh chủ yếu sử dụng binh khí lạnh truyền thống và hỏa khí còn sót lại từ triều Minh. Binh khí lạnh là vũ khí chính của kỵ binh tác chiến, chủ yếu là giáo dài, vũ khí ngắn dài khác còn có mấy chục loại nhưng không thực dụng, đa phần chỉ dùng để thi thố sát hạch. Vũ khí bắn chủ yếu là cung, nỏ, giáp trụ và lá chắn là binh khí phòng ngự, giáp trụ cũng không được sử dụng nhiều, chủ yếu dùng bài mây làm lá chắn, rất có hiệu quả trong việc chống cự, ngăn chặn việc đâm chém của vũ khí lạnh. Hỏa khí thì chia làm hai loại là hỏa pháo và súng ống. Hỏa pháo là pháo nòng trơn, thường được đúc bằng đồng sắt. Loại được chế tạo theo phương thức cũ, thuốc súng và quả đạn hình cầu được nạp trực tiếp vào miệng pháo; Loại được chế tạo theo phương thức sau này, là một tổ hợp gồm một pháo mẹ và nhiều pháo con, pháo con có thể được đặt trong bụng pháo mẹ. Hai loại hỏa pháo này đều dùng dây ngòi để điểm hỏa, bắn ra viên chì và quả đạn thép. Hình thức chế tạo bắt chước giống như thời Minh, kỹ thuật lạc hậu, sản xuất đình trệ, hạn chế chỉ dùng cho pháo loại cũ. Súng thì chủ yếu là điểu thương và đài thương (Jingall). Súng điểu thương có nhiều loại, các tỉnh đều có thể tự chế tạo, “kích thước ngắn dài không thống nhất, quy cách cũng tùy theo từng nơi.” Súng đài thương thực chất là súng điểu thương cỡ lớn, dài 2 – 3m, nặng khoảng 10kg, lượng thuốc súng, xạ trình và độ sát thương đều hơn súng điểu thương.
Sau đó, quân Thanh từng bước mở rộng, trở thành lực lượng có thể đe dọa quân Thái Bình bằng hỏa khí. Nhưng xét về tổng thể, hình thức chế tạo và chất lượng súng ống của Thanh triều vẫn chỉ dừng ở mức trình độ thời Minh mạt, đồng thời một số một số hỏa khí tiên tiến đã từng xuất hiện thời Minh mạt không được chú trọng và sử dụng, cuối cùng dẫn tới việc sự phát triển hỏa khí của Trung Quốc bị đình trệ tới 200 năm. Cho dù sử dụng vũ khí cũ kỹ, quân Thanh cũng không chú trọng huấn luyện sử dụng, do đó không thể nắm vững sử dụng thành thạo kỹ thuật. Danh tướng Phúc Khang An thời Càn Long – Gia Khánh từng dâng sớ cảnh báo:
Trận thế của quân Lục doanh xưa nay, chỉ là các thức lưỡng nghi tứ tượng, vuông tròn. Đây đều là các trận thế được truyền lại từ tiền triều, bắt chước như cũ. Bình thường thao duyệt tuy đáng xem nhưng khi lâm trận chiến đấu lại không thực dụng. (Hoàng triều kinh thế văn biên, quyển 71, trang 35-36)
Lời cảnh báo của Phúc Khang An đã không đem lại sự thay đổi tích cực nào, Thanh triều vẫn trong cái vỏ “thái bình thịnh thế” để duy trì bộ mặt cường thịnh, vua Càn Long thì mặc sức khoe khoang “thập toàn võ công”, đối ngoại thì tự cho mình ở thế “Thiên triều thượng quốc”, thực thi chính sách tiêu cực bế quan tỏa cảng, dẫn đến chính cục bại hoại, sản xuất đình trệ, quốc lực suy yếu. Đầu thời Gia Khánh, Bạch Liên giáo khởi nghĩa cuốn chiếu ở rất nhiều tỉnh, quân Bát kỳ và Lục doanh đánh trận nào thua trận đấy, thảm bại tan tác. Thanh đình không biết làm sao, phải chiêu mộ hương dũng, tạm thời thu nhặt dân đói, lưu dân, dân thành thị tòng quân, cuối cùng đã đàn áp cuộc khởi nghĩa trong bể máu. Mục đích tòng quân của lính hương dũng là để lĩnh lương, trong chiến tranh giết người cướp bóc, buông thả kỷ luật, không dễ chỉ huy và chế ngự. Nhưng tử trận thì không phải báo lên trên, bị tướng soái cho làm tiền khu, chịu sự đốc thúc chỉ huy của Lục doanh, Bát kỳ. vì thế, thù oán giữa lính Bát kỳ, Lục doanh và lính hương dũng tích tụ thâm sâu, xung đột không ngớt. Lính hương dũng không cam chịu làm nhục, mất mạng, bị đánh tan và chạy toán loạn, chuyện trở giáo, đánh lại lẫn nhau đã không còn là lạ. Thanh đình biết rõ tệ nạn nghiêm trọng nhưng vẫn buộc phải bỏ số tiền lớn ra chiêu mộ. Chiến dịch tiêu diệt Bạch Liên giáo tiêu tốn hết hơn trăm triệu, gấp nhiều lần số tiền quân lương dụng binh ở biên cương. Từ đó, việc chiêu mộ lính hương dũng vào thời chiến đã trở thành lệ thường. Các tỉnh miền duyên hải trong chiến tranh nha phiến đua nhau chiêu mộ, trong đó số hương dũng của Lưỡng Quảng ước tính khoảng 5 vạn, bố phòng giới ngiêm khu vực trung tâm trên bộ và dưới nước, phí tổn cực lớn nhưng không có hiệu quả thực tế. Sau chiến tranh bị giải thể cuộc sống rất khó khăn, phần lớn hương dũng gia nhập giang hồ lục lâm, trở thành lực lượng xung kích của cuộc khởi nghĩa Thiên Địa hội. Có thể thấy, lính hương dũng tuy có thể phụ trợ binh lực cho Bát kỳ và Lục doanh nhưng tố chất chính trị và quân sự rất kém, trong chiến tranh rất khó độc lập tác chiến, hơn nữa còn chịu sự bái xích và hạn chế nặng nề của Bát kỳ, Lục doanh nên sức chiến đấu cũng khó có thể phát huy. Sau khi Thái Bình Thiên Quốc nổi dậy, lính hương dũng trong hàng ngũ quân Thanh ở tiền tuyến khá nhiều, cơ hồ chiếm đến một nửa binh lực nhưng chẳng thu được hiệu quả quân sự nào rõ rệt.
Việc thành bại trong chiến tranh nha phiến đã bộc lộ rõ sự thua kém về vũ khí của Trung Quốc với phương Tây. Vua Đạo Quang từng thao duyệt hỏa khí doanh Bát kỳ ở kinh sư, là binh chủng chuyên về hỏa khí khi đó, trước giờ vẫn xưng là tinh hoa của Bát kỳ, kết quả là đa phần đại pháo bắn không trúng bia, đạn thì có viên bay nửa chừng rớt xuống đất.(1) (Thanh Tuyên Tông thực lục, quyển 271, trang 6 – 7) Quân Thanh giữ Sơn Hải quan thiếu hụt đại pháo giữ ải, lại lấy pháo cũ đã bỏ đi từ thời Minh để dự phòng. Cứ điểm phòng thủ duyên hải Chương Châu ở Phúc Kiến tự chế tạc đạn, “hoặc phóng ra không nổ, hoặc vừa châm ngòi đã nổ.” Hỏa pháo “gieo xuống đất hơi mạnh một chút là hai tai gãy ngay” nói gì đến bắn phá địch.(2) ((Thanh Tuyên Tông thực lục, quyển 353). Chiến thuyền của thủy sư cũ nát vô cùng, không cách nào điều khiển, đành phải góp nhặt tạm thời thuyền của dân buôn. Vũ khí như vậy đem so với thuyền kiên cố, pháo lợi hại của quân Anh xâm lược, ảnh hưởng đến việc thắng bại là quá rõ ràng.
Sau khi bại trận, có trí thức đã đề xuất “học theo kỹ thuật của người Tây”, Ngụy Nguyên biên soạn “Hải quốc đồ chí”, chủ trương trước tiên học tập kỹ thuật quân sự của phương Tây: “thứ nhất là tàu chiến, thứ hai là hỏa pháo, thứ ba là phuơng pháp xây dựng và rèn luyện binh sĩ.” (Ngụy Nguyên (hải quốc đồ chí) Trong thời gian chiến tranh, các nhân tài công nghiệp quân sự phía quân Thanh cũng bắt tay vào mô phỏng kỹ thuật phương Tây, nghiên cứu và tiến hành một số cải tiến về hỏa khí. Vua Đạo Quang cũng ý thức được bài học từ thất bại, đã hạ chỉ rõ ràng: “Phòng vệ biển thường lấy việc tạo thuyền chế pháo làm trọng” (trù biện di vụ thủy mạt, triều Đạo Quang, trang 2397), phòng ngự đường bộ, “thường lấy hỏa pháo làm đầu, trong đó ưu tiên dùng pháo 200 cân, tiện ích vô cùng; thứ đến là dùng súng đài thương, điểu thương; thứ nữa là dùng đao mâu, rồi đến thì dùng mã đội.” (trù biện di vụ thủy mạt, triều Đạo Quang, trang 2465) Yêu cầu các tỉnh duyên hải chế tạo hỏa pháo tốt thích hợp dùng cho chiến thuyền, khảo sát và đề bạt quân quan, phải chú trọng “thủy binh và lính hỏa pháo và lính điểu thương”(4) (trù biện di vụ thủy mạt, triều Đạo Quang, trang 2425). Tuy chưa thể đạt tới trình độ “học theo kỹ thuật của người Tây”, nhưng cũng đã thay đổi từ truyền thống trước đây chú trọng binh khí lạnh chuyển hướng sang phát triển tàu thuyền tốt và súng pháo. Thế nhưng, sau cuộc chiến, Thanh đình tài chính túng thiếu, ngay đến cả lương hưởng thường lệ cũng khó chi trả, việc nghiên cứu chế tạo và phát triển súng pháo chiến thuyền đương nhiên là thiếu hụt kinh phí, không chỉ cách nghĩ của những người như Ngụy Nguyên không nhận được sự trọng thị của giới quan lại, ngay cả thượng dụ của vua Đạo Quang cũng thành thứ nói rồi để đấy, không cách nào thực thi được.
Chiến tranh nha phiến càng bộc lộ tất cả những tính chất hủ bại của quân Thanh, quân Anh chỉ điều động hơn 2 vạn người, vua Đạo Quang điều động Kỳ Lục gần 10 vạn quân, các tỉnh duyên hải còn chiêu mộ một số lượng lớn hương dũng để bố phòng. Xét về binh lực thì quân Thanh chiếm ưu thế, nhưng chủ lực 2 bên chưa từng triển khai giao chiến ở tầm quy mô lớn. Quân Thanh chỉ đơn thuần phòng ngụ ở một số thành trì đạt được chiến tích tráng liệt, xuất hiện một số gương tướng lĩnh ái quốc hi sinh đẫm máu. Nhưng năng lực của đa số tướng soái đều tầm thường, thống soái ở hai chiến trường chính là Chiết Giang, Quảng Đông là Dịch Kinh và Dịch Sơn, đi tới đâu cũng nhiễu dân, gây nguy hại cho địa phương, thấy địch thì tháo chạy, Dịch Sơn còn treo cờ trắng xin hàng, nhưng lại hư báo chiến tích với vua Đạo Quang, thậm chí còn giết dân mạo công, khiến người ta căm phẫn. Quan lại đề, trấn cũng học theo, tiếng xấu đủ loại. Vua Đạo Quang sau khi biết chuyện truy xét, số quan văn võ bị xử phạt tới vài trăm. Sau cuộc chiến tuy có xử phạt, nhưng không cách nào chỉnh đốn, thói quen tích tụ khó mà vãn hồi mà ngày càng trầm trọng hơn. Sự yếu kém hủ cực độ của quân Thanh phổ biến trong chiến tranh là tâm lý sợ chiến đấu, quan quân đều tham sống sợ chết, sỹ tốt hèn yếu khiếp sợ, sức chiến đấu tổng thể là rất kém. Có người miêu tả biểu hiện của tướng soái quân Thanh thời chiến như sau:
Lấy việc im lặng rút lui làm kính cẩn, lấy việc đùn đẩy xa lánh làm hòa thuận…(Mao thượng thư tấu nghị, quyển 1).
Còn biểu hiện của sỹ tốt Lục Doanh là, “kẻ thấy giặc bỏ chạy là thượng dũng, kẻ thấy gió mà chạy là trung dũng, kẻ nghe nhầm mà chạy là hạ dũng.” (Việt Mạn Đường nhật ký bổ, ngày 26 tháng 5 năm Hàm Phong thứ 10)
Sự hủ bại của quân Thanh còn thể hiện ở chỗ tản mạn không có kỉ luật. Quan binh nhân hoàn cảnh chiến tranh, giết người cướp của, gian dâm phụ nữ, làm nhiều điều ác. Trong quá trình điều phái di chuyển bố phòng cũng tống tiền sách nhiễu, thậm chí còn cướp phá nhà dân, cưỡng ép dân phu, người dân bên đường ai oán ngập tràn. Người bạn chí cốt của Tăng Quốc Phiên là Ngô Mẫn Thụ đã chỉ khống quân Thanh, “dọc đường cưỡng hiếp, cướp bóc, người dân bên đường né tránh, họ sợ quan quân chứ không sợ giặc.” (Ngô Mẫn Thụ, Bàn Hồ văn tập, quyển 5).
Thế nhưng, xét về bản tính giai cấp, quân Thanh vẫn là một lực lượng vũ trang phong kiến hung tàn phản động, trường kỳ phòng bị và trấn áp cuộc đấu tranh phản kháng của nhân dân, từng trải qua nhiều cuộc chinh chiến trong và ngoài nước, có kinh nghiệm chiến đấu nhất định, cũng có chiến lược chiến thuật đối phó với các cuộc khởi nghĩa nông dân. Đồng thời chúng lấy nhân lực và của cải vật chất của cả nước làm chiến lược hậu bị, thể chế cung ứng và chỉ huy phòng ngự toàn quốc được xây dựng từ trên xuống dưới, cho dù vận hành không tốt, nhưng rốt cuộc vẫn có thể thao tác thực hiện, dần dần đưa kinh tế và tài chính quốc gia vào quĩ đạo chiến tranh, không ngừng huy động tài nguyên hậu bị, chi viện cho tiền tuyến, chuyển hóa thành sức mạnh vật chất trên chiến trường để bù đắp và khắc phục những yếu kém về tố chất, nhược điểm về tinh thần sĩ khí. Đồng thời, sức chiến đấu trong nội bộ quân Thanh cũng không cân bằng, cũng có một số tướng soái tích lũy được nhiều kinh ngiệm chiến tác chiến, như Hướng Vinh và đội Sở quân, đội kị binh Mông Cổ của Tăng Cách Lâm Tẩm sức chiến đấu rất cao, trước sau trở thành kẻ địch đáng gờm của quân Thái Bình. Vì vậy, quân Thanh, trong thời gian dài luôn chiếm ưu thế về chiến lược hậu bị, có thể liên tục có được sự bổ xung, làm mới về nhân lực, vật lực, hỏa khí cũng ngày một nhiều, kết cấu vũ khí cũng có sự cải tiến, là sự uy hiếp rất lớn đối với những đạo quân khởi nghĩa nông dân khiếm khuyết về kinh nghiệm đấu tranh vũ trang và trang bị vũ khí, rất nhiều cuộc khởi nghĩa vội vàng cấp bách, ngay lập tức bị trấn áp. Quân Thái Bình khi mới nổi dậy cũng nhiều lần gặp bất lợi, trường kì ở vào thế bị quân Thanh vây hãm phong tỏa. Dù là trong thời kì phát triển cũng bị quân Thanh, với ưu thế về chiến lược ép cho từ thế tiến công phải chuyển sang phòng ngự, hình thành thế trận giằng co lâu dài. Đồng thời, Tương Hoài quân và các lực lượng vũ trang địa chủ khác dưới sự nâng đỡ của Thanh triều đã được thành lập và tham gia trấn áp khởi nghĩa, cơ cấu và tố chất của quân Thanh có sự cải thiện lớn lao, cuộc vận động Thái Bình Thiên Quốc phải đối mặt với kẻ địch hung ác hơn, tình hình quân sự không ngừng có sự biến đổi khôn lường.