25/05/2018, 13:10

Tàu ngầm Kiểu 23

Tàu ngầm kiểu 23 lúc đầu còn được gọi là "elektroboat" khi được đưa vào hoạt động. Chúng là một loại tàu ngầm hoạt động gần bờ được thiết kế cho vùng nước nông của Biển Bắc, Biển Đen và Biển Địa Trung Hải.Một lượng lớn tàu ngầm Kiểu 21 đã không sử dụng được ...

Tàu ngầm kiểu 23 lúc đầu còn được gọi là "elektroboat" khi được đưa vào hoạt động. Chúng là một loại tàu ngầm hoạt động gần bờ được thiết kế cho vùng nước nông của Biển Bắc, Biển Đen và Biển Địa Trung Hải.Một lượng lớn tàu ngầm Kiểu 21 đã không sử dụng được trong chiến tranh thế giới thứ hai. Chúng quá nhỏ vì thế chỉ có thể mang hai ngư lôi và được đẩy trực tiếp vào các ống ngư lôi từ bên ngoài. Cũng như người anh em tàu ngầm Kiểu 21 lớn hơn nó có thể lặn hầu như liên tục và nhanh hơn tất cả các tàu ngầm khi ấy trên thế giới với việc tăng hình dáng khí động học, các ác quy có khả năng tích trữ lớn hơn và thêm hệ thống ống thông hơi như tàu ngầm của Nhật Bản cho phép động cơ diesel hoạt động khi đang lặn. Các tàu ngầm Kiểu 21 và Kiểu 23 đã làm nên một cuộc cách mạng trong việc thiết kế tàu ngầm sau chiến tranh.

Mọi việc bắt đầu khi tàu ngầm Kiểu 21 được phát triển vào cuối năm 1942 một đề xuất đã được đưa ra về việc phát triển một loại tàu ngầm nhỏ hơn nhưng có công nghệ tương tự Kiểu 21 để thay thế cho loại tàu ngầm hoạt động gần bờ Kiểu 2. Đô đốc Karl Dönitz đã đặc ra các yêu cầu là: loại tàu ngầm đó có thể hoạt động ở cả biển Địa Trung Hải và Biển Đen, nó có thể được vận chuyển bằng tàu hỏa và phải sử dụng được các loại ngư lôi 21 inch tiêu chuẩn.

Việc phát triển tàu ngầm Kiểu 23 được ưu tiên đặc lên hàng đầu, với việc sử dụng những phụ tùng đã có sẵn càng nhiều càng tốt. Và để giảm thời gian nghiên cứu Hellmuth Walter đã sử dụng mẫu thiết kế có sẵn của mẫu tàu ngầm Kiểu 22. Vào 30/06/1943 bản thiết kế của tàu ngầm Kiểu 23 đã hoàn thành và sẵn sàng cho việc sản xuất, việc đóng tàu được thực hiện song song giữa các xường đóng tàu tại Đức, Pháp, Ý, và một số tại xưởng mà Đức chiếm đóng của Nga. Nhà thầu chính được chọn để thực hiện công việc đóng tàu là Deutsche Werft tại Hamburg.

Giống như Kiểu 21, từng phần khác nhau của Kiểu 23 sẽ được làm riêng biệt và do các nhà thầu phụ khác nhau thực hiện. Một số sẽ được lắp ráp ở bãi đóng tàu ở ngoài nước tính từ U-2446 đến U-2460 được thực hiện ở xưởng đóng tàu Deutsche Werft tại Mykolaiv. Chúng được chuyển đến xưởng đóng tàu Linzner vào 01/05/1944 và sau đó việc đóng chúng bị hủy bỏ. Điều này có nghĩa là việc đóng tàu sẽ được tập trung ở Germaniawerft tại Kiel và Deutsche Werft tại Hamburg, Germaniawerft đóng được 51 chiếc còn Deutsche Werft đóng được 49 chiếc. Trong tổng số 280 chiếc được đặc hàng chỉ có 61 chiếc được đưa vào sử dụng và trong số đó chỉ có 6 chiếc là được giao nhiệm vụ tuần tra.

có một lớp vỏ tàu được hàn toàn bộ, Chiếc tàu ngầm đầu tiên chỉ có một lớp vỏ. Nó có một hình dáng khí động học và thêm vào đó là tháp gắn kính tiềm vọng khá nhỏ, nó có một khoang cách âm để đặc động cơ diesel để tăng sự yên lặng của tàu khi hoạt động, nó có một bong tàu không gồ ghề.

Chân vịt duy nhất của tàu ngầm có ba cánh và một bánh lái ở phía sau. Với chiếc Kiểu 23 phần dưới của sáu khoang trong thân tàu dược dùng để gắn 62 ác quy.

Để nó có thể được vận chuyển bằng đường sắt tàu ngầm phải có thể tháo rời để đặc trong các khoang chứa hàng tiêu chuẩn. Khi vận chuyển tàu có thể được tháo ra làm bốn phần và tháp gắn kính tiềm vọng được tháo ra. Vì vấn đề tiết kiệm không gian khi vận chuyển phần thân của tàu được thiết kế càng hẹp càng tốt điều đó có nghĩa là nó chỉ có thể gắn hai ống ngư lôi và không thể mang theo ngư lôi thay thế. Các ngư lôi được đẩy trực tiếp vào các ống ngư lôi từ phía sau của tàu tại khoang dằn tàu còn khi phần mũi của tàu nhô lên khỏi mặt nước thì các ngư lôi có thể nạp trực tiếp bằng cách đẩy chúng vào các ống ngư lôi từ phía trước.

đã chứng minh rằng nó có những đặc tính ấn tượng trong việc xử lý các tình huống, với khả năng di chuyển và điều khiển dễ dàng cả khi nổi cũng như khi lặn. Nó có thể lặn xuống hoàn toàn chỉ trong 9 giây, độ sâu tối đa mà loại tàu này có thể đạt được là 180 m (590 ft). Tốc độ tối đa khi lặn là 12,5 kn (23,2 km/h; 14,4 mph), tốc độ tối đa khi nổi là 10,5 kn (19,4 km/h; 12,1 mph) đây là tốc độ mà nó có thể đạt được khi sử dụng ống thông hơi.

Chiếc đầu tiên của loại tàu ngầm Kiểu 23 là chiếc U-2321 được hạ thủy ở Deutsche Werft tại Hamburg vào 17/04/1944 nó là một trong sáu chiếc được giao nhiệm vụ tuần tra vùng biển Anh vào đầu năm 1945. 48 chiếc tiếp theo dược hả thủy ở Deutsche Werft và 13 chiếc ở Germaniawerft tại Kiel. Chiếc U-4712 là chiếc cuối cùng của loại này được hạ thủy vào 19/04/1945.

Không có chiếc nao trong sáu chiếc tàu ngầm Kiểu 23 là U-2321, U-2322, U-2324, U-2326, U-2329 và U-2336 bị đánh chìm bởi tàu của quân Đồng Minh nhưng chúng đã đánh chìm và làm hư hại 5 chiếc tàu khác với tổng lho61i lượng là 14.601 tấn.

Nhiệm vụ tuần tra đầu tiên của loại tàu ngầm này bắt đầu khá trễ trong chiến tranh, chiếc U-2324 ra bắt đầu khơi từ Kiel vào 18/01/1945 cho dù nó tồn tại đến sau chiến tranh thì nó vẫn không đánh chìm được bất cứ tàu nào. chiếc tàu ngầm Kiểu 23 đạt được thành công đầu tiên trong chiến trận là chiếc U-2322 được chỉ huy bởi Oberleutnant zur See Fridtjof Heckel. Ra khơi tiến đến Norwegian vào 06/02/1945 nó đã thấy một đoàn tàu vận chuyển ngoài khơi Berwick tại Northumberland nó đã đánh chìm chiếc tàu buôn dọc bờ biển Egholm vào ngày 25 tháng 02. Chiếc U-2321 cũng đã đi tuần tra cùng địa điểm đó và đã đánh chìm chiếc tàu buôn dọc bờ biển Gasray vào 05/04/1945 ngoài khơi St Abbs Head. Chiếc U-2336 dưới sự chỉ huy của Kapitänleutnant Emil Klusmeier sau này đã đánh chìm chiếc tàu bị mất cuối cùng của quân Đồng Minh trong chiến tranh thế giới thứ hai vào 07/05/1945, khi nó bắn ngư lôi đánh chìm hai chiếc tàu chở hàng là chiếc Sneland và Avondale Park ngoài khơi Isle of May trong Firth of Forth.

Hai chiếc Sneland và Avondale Park bị đánh chìm vào khoảng 23:03, chưa đầy một giờ trước khi quân Đức tuyên bố đầu hàng và chiếc Avondale Park trở thành chiếc tàu buôn cuối cùng bị tàu U-boat đánh chìm trong thế chiến thứ hai. Vào thời điểm đó việc đánh chìm hai tàu được xem như là Kapitänleutnant Klusmeier người đã nhận nhiệm vụ tuần tra đầu tiên của mình đã bị xem là đã cố tình làm ngơ lệnh ngừng bắn của Donitz, tuy nhiên Klusmeier khẳng định rằng khi đó ông không hề nhận được bất kỳ lệnh gì.

Tám chiếc tàu ngầm Kiểu 23 bị mất vì nhiều lý do khác nhau.

  • Chiếc U-2323 bị vướng thủy lôi vào 26/07/1944.
  • Chiếc U-2331 gặp tai nạn khi đang huấn luyện 10/10/1944.
  • Chiếc U-2338 bị đánh chìm bởi máy bay loại Beaufighter của Anhlàm thiệt mạng 12 thủy thủ ở phía Đông-Đông-Bắc vào 04/05/1945 trước khi chiếc tàu này bắt đầu cuộc tuần tra của mình.
  • Chiếc U-2342 bị vướng thủy lôi vào 26/12/1944.
  • Chiếc U-2344 bị đâm và chìm bởi chiếc U-2336 vào 18/02/1945.
  • Chiếc U-2351 bị trả lại sau khi bị dính bom vào 04/1945.
  • Chiếc U-2359 bị đánh chìm bởi máy bay của quân Đồng Minh vào 02/05/1945.
  • Chiếc U-2367 bị đâm và chìm bởi một chiếc U-boat không xác định vào 05/05/1945.

vào đầu tháng 05/1945, 31 chiếc Kiểu 23 đã bị đánh đắm bởi thủy thủ của chúng. 20 chiếc đầu hàng quân Đồng Minh và bị đánh đắm tại Operation Deadlight. Chỉ có ba chiếc là tồn tại đến sau chiến tranh là U-2326 (trở thành tàu ngầm Anh với tên N35), U-2353 (trở thành tàu ngầm Anh với tên N37) và U-4706 (trở thành tàu ngầm Norwegian với tên Knerten).

Một chiếc Kiểu 23 đã được giao cho phía Liên Xô thông qua hiệp ước Potsdam và chiếc thứ hai được báo cáo là trục vớt lên trong năm 1948.

Vào năm 1958 Hải quân Đức đã trục vớt lên hai chiếc Kiểu 23 là U-2365 (bị đánh đắm ngoài khơi Kattegat năm 1945) và U-2367 (bị chìm gần Schleimünde do đâm phải một chiếc U-boat khác), sau đó biên chế đổi tên chúng lại thành U-Hai (Shark) và U-Hecht (Pike) với các số hiệu là S 170 và S 171. Chiếc U-Hai bị chìm do một trận cuồng phong tại Dogger Bank làm thiệt mạng 19 đến 20 thủy thủ. Sự việc đó là một thảm họa hàng hải của Hải quân Đức trong suốt 50 năm tồn tại của mình. Các thử nghiệm với hai tàu ngầm này đã dẫn đến thiết kế của tàu ngầm Kiểu 206 vẫn được dùng đến ngày nay.

0