25/04/2018, 22:06

Soạn bài Vào phủ chúa Trịnh trang 3 SGK Văn 11 – Ngữ văn lớp 11...

Vào phủ chúa Trịnh – Lê Hữu Trác – Soạn bài Vào phủ chúa Trịnh trang 3 SGK Ngữ Văn 11. 1. Thể loại: Kí là một thể văn xuôi tự sự khá phát triển từ thời kì văn học trung đại. Tác phẩm kí thường có cốt truyện là sự thực cuộc sống. Người viết kí trung thành với sự thật, khai thác sự thật theo quan ...

Vào phủ chúa Trịnh – Lê Hữu Trác – Soạn bài Vào phủ chúa Trịnh trang 3 SGK Ngữ Văn 11. 1. Thể loại: Kí là một thể văn xuôi tự sự khá phát triển từ thời kì văn học trung đại. Tác phẩm kí thường có cốt truyện là sự thực cuộc sống. Người viết kí trung thành với sự thật, khai thác sự thật theo quan điểm cá nhân.

I. Tác giả, tác phẩm

a) Tác giả- Lê Hữu Trác (1724 – 1791) tên hiệu là Hải Thượng Lãn Ông, quê cha ở Hưng Yên, quê mẹ ở Hà Tĩnh. Ông là một danh y đồng thời là nhà văn nhà thơ lớn.

b) Tác phẩm

– Thể loại: Kí sự.

– Viết bằng chữ Hán miêu tả quang cảnh ở kinh đô, cuộc sống xa hoa trong phủ chúa và quyền uy thế lực của nhà chúa qua những điều mắt thấy tai nghe , nhân dịp Lê Hữu Trác được chúa Trịnh Sâm triệu về kinh đô chữa bệnh cho chúa và thế tử Trịnh Cán. Tác phẩm còn thể hiện thái độ kinh thường danh lợi của tác giả.

– Bố cục:

+ Phần 1: Từ đầu đến ” không có dịp”: Quang cảnh bên ngoài phủ chúa.

+ Phần 2: Còn lại: Cảnh nội dung.

HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI CÂU HỎI

1. Quang cảnh trong phủ chúa được miêu tả như thế nào? Cung cách sinh hoạt trong phủ chúa ra sao? Những quan sát, ghi nhận này nói lên cách nhìn, thái độ của Lê Hữu Trác đối với cuộc sống nơi phủ chúa như thế nào?

a. Quang cảnh trong phủ chúa:

– Âm thầm quan sát, người thầy thuốc phát hiện ra rằng: vào phủ chúa phải qua rất nhiều lần cửa, với “những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp”. Ớ mỗi cửa đều có vệ sĩ canh gác, “ai muốn ra vào phải có thẻ”, trong khuôn viên phủ chúa có điếm “Hậu mã quân túc trực” để chúa sai phái đi truyền bá mệnh lệnh ra bên ngoài. Vườn hoa trong phủ chúa “cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương”.

–  Bên trong phủ bày biện toàn những đồ sang trọng như: kiệu son, võng điều, đồ nghi trượng sơn son thếp vàng rồi những đồ dùng tiếp khách ăn uống toàn là “mâm vàng, chén bạc”. Trong nội cung thế tử cũng vậy: phòng thắp nến, có sập thếp vàng, ghế rồng sơn son thếp vàng, trên ghế bày nệm gấm, màn che ngang sân, “xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt”.

Có thể nói, chính những gì đang hiển hiện ra trước mắt người đọc đã tự nói lên tất cả cái quyền uy tối thượng đang nằm trong tay nhà chúa cũng như nếp hướng thụ cực kì xa xỉ của Trịnh Sâm và gia đình chúa.

b. Cung cách sinh hoạt đầy kiểu cách:

–    Đầu tiên, khi tác giả lên cáng vào phủ theo lệnh của chúa thì có “tên đầy tớ chạy đàng trước hét đường”. “Cáng chạy như ngựa lồng” khiến người trong cáng “bị xốc một mẻ, khổ không nói hết”. Trong phủ chúa, “người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc quan qua lại như mắc cửi”.

–    Trong cuộc tiếp kiến vị Đông cung thế tử, tất cả những lời lẽ nhắc đến chúa và thái tử đều phải hết sức cung kính, lễ độ (“Thánh thượng đang ngự ở đấy”, “chưa thể yết kiến”, “hầu mạch Đông cung thế tử”, “hầu trà” (cho thế tử uống thuốc), “phòng trà” (nơi thế tử uống thuốc)…).

–     Trong cuộc tiếp kiến ấy, tác giả cũng không được thấy mặt chúa. Tất cả những mệnh lệnh của chúa đểu được phán bảo qua quan Chánh đường hoặc người truyền mệnh. Thầy thuốc xem bệnh xong cũng không được phép trao đổi với chúa mà phải viết tờ khải để quan Chánh đường dâng lên chúa. Nội cung trang nghiêm đến nỗi vị thầy thuốc cũng phải “nín thở” khi đứng chờ ở xa và “khúm núm” khi đến trước sập để xem mạch cho thế tử.

–     Thế tử ốm và lúc nào cũng có đến bảy, tám thầy thuốc phục dịch. Lúc nào cũng có “mấy người đứng hầu hai bên”. Thế tử tuy mới chỉ được năm, sáu tuổi nhưng khi vào xem mạch lẫn khi ra, người thầy thuốc đểu phải cúi lạy cung kính, lễ phép. Trước khi cho thầy thuốc xem thân hình, một viên quan nội thần phải đến xin phép được cởi áo cho thế tử.

c. Cách nhìn của tác giả:

Những chi tiết vừa nêu là những ghi chép chân thực, sắc sảo về cuộc sống xa hoa nơi phú chúa đồng thời cũng kín đáo bộc lộ thái độ coi thường lợi danh của người thầy thuốc giàu y đức.

2. Phân tích những chi tiết trong đoạn trích mà anh (chị) cho là “đắt”, có tác dụng làm nổi bật giá trị hiện thực của tác phẩm.

– Đoạn trích có nhiều chi tiết nghệ thuật rất “đắt”, thể hiện nổi bật nội dung hiện thực của tác phẩm. Sự tinh tế và sắc sảo của tác giả đọng lại trong đoạn trích là ở những chi tiết tuy nhỏ nhưng rất gây ấn tượng. Ví như chi tiết đối lập: thế tử – mội đứa bé – ngồi chễm chệ trên sập vàng cho thầy thuốc – một cụ già – quỳ lạy. Để rồi “ngài” cười và ban một lời khen “rất trẻ con”: “Ông này lạy khéo !“. Hoặc ở một chi tiết khác khi tác giả đi vào nơi ở của thế tử để xem mạch: “Đột nhiên thấy ông ta (quan Chánh đường) mở một chỗ trong màn gấm rồi bước vào. Ở trong tối om, không thấy có cửa ngõ gì cả. Đi qua độ năm, sáu lần trướng gấm như vậy…”.

– Truyện còn có nhiều chi tiết khác cũng sắc sảo như vậy: chi tiết miêu tả nơi “Thánh thượng đang ngự” (“có mấy người cung nhân đang đứng xúm xít. Đèn sáp chiếu sáng làm nổi màu mặt phấn và màu áo đỏ. Xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt”), rồi chi tiết miêu tả những dụng cụ dùng để ăn uống, những món ăn khi quan Chánh đường mời thầy thuốc dùng bữa sáng..

3. Cách chẩn đoán và chữ bệnh của Lê Hữu Trác cùng những diễn biến tâm tư của ông khi kê đơn cho ta hiểu gì về người thầy thuốc này?

Dõi theo từng bước đi của người thầy thuốc, người đọc có thể nhận thấy thái độ, tâm trạng và những suy nghĩ khá sâu sắc của nhà văn:

–    Đứng trước cảnh xa hoa lộng lẫy, tấp nập người hầu kẻ hạ nơi phủ chúa, tác giả nhận xét: “Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa khác hẳn người thường”. Trước cảnh ấy, tác giả đã vịnh một bài thơ tả hết cái sang trọng, vương giả nơi phủ chúa. Trong bài thơ ấy, tác giả đã phải thốt lên: “Cả trời Nam sang nhất là đây!”.

+ Khi được mời ăn cơm sáng, tác giả đã khéo léo bày tỏ nhận xét: “mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ, tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia”.

+ Nói về bệnh trạng của thế tử, tác giả nhận xét: ‘Vì thế tử ỡ trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi”.

Tác giả tỏ ra dửng dưng trước những quyến rũ vật chất này, đồng thời có những biểu hiện chứng tỏ thái độ khồng đồng tình với cuộc sống tuy quá no đủ và tiện nghi nhưng lại thiếu khí trời và không khí tự do.

–     Tâm trạng và cảm nghĩ của Lê Hữu Trác khi chữa bệnh cho thế tử còn diễn biến phức tạp hơn. Thăm bệnh xong, người thầy thuốc đã hiểu được rõ nguyên nhân căn bệnh của thái tử. Ông đưa ra những luận giải rất hợp lí, có cách chữa trị riêng. Nhưng trong lúc ấy, ông lại lo nếu chữa bệnh hiệu quả ngay sẽ được chúa tin dùng, lúc đó lại bị trói buộc bởi vòng danh lợi. Thoáng nghĩ đến việc kê một đom thuốc vô thướng, vô phạt nhưng rồi ông lại quên ý nghĩ đó ngay. Việc làm ấy trái với y đức, trái với lương tâm ông và thậm chí phụ lòng trung của tổ tiên. Hai suy nghĩ đó giằng co, xung đột với nhau. Cuối cùng ông đã chọn theo lương tâm, phẩm chất của người thầy thuốc. Ông thẳng thắn đưa ra bài thuốc của mình – một bài thuốc trái với ý của nhiều người khiến quan Chánh đường thậm chí có ý đắn đo.

Từ những chi tiết về việc chữa bệnh của thầy thuốc Lê Hữu Trác, có thể thấy:

+ Tác giả là một thầy thuốc giàu kinh nghiệm, có kiến thức sâu và rộng.

+ Bên cạnh tài năng, ông còn là một người thầy giàu y đức.

+ Trên cả những điều đó là một thái độ coi thường danh lợi, yêu thích nếp sống tự do, thanh đạm ở quê nhà. Quan điểm này tất nhiên cũng gián tiếp cho thấy, tác giả không đồng tình với lối sống xa hoa của những người nắm giữ trọng trách quốc gia.

4. Theo anh (chị), bút pháp kí sự của tác giả có gì đặc sắc? Phân tích những nét đặc sắc đó.

Từ những điều đã phân tích trên đây, có thể thấy đặc sắc trong nghệ thuật viết kí sự của nhà văn được bộc lộ ở những điểm sau:

– Sự quan sát tỉ mỉ, tinh tế và sắc sảo; bút pháp tả cảnh sinh động.

– Nội dung ghi chép trung thực.

– Kể diễn biến sự việc khéo léo, lôi cuốn, hấp dẫn, đặc biệt là những chi tiết nhỏ có tính chất tạo nên cái thần của cảnh và việc.

III. LUYỆN TẬP

So sánh đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh với một tác phẩm (hoặc đoạn trích) kí khác của văn học trung đại Việt Nam mà anh (chị) đã đọc và nêu nhận xét về nét đặc sắc của đoạn trích này.

Bài làm

Điểm chung của đa số các tuỳ bút là giá trị hiện thực và thái độ của nhà văn trước hiện thực ấy.

Tuy nhiên mỗi tuỳ bút lại có sự khác nhau trong cách bộc lộ thái độ của nhà văn trước hiện thực (trực tiếp hay gián tiếp, rõ ràng hay kín đáo…); khác nhau trong việc lựa chọn các chi tiết nghệ thuật, cũng như cách thể hiện nghệ thuật.

Có thể tự làm rõ những điều này khi so sánh Thượng kinh kí sự với Vũ trung tuy bút của Phạm Đình Hổ (một tác phẩm cùng thời) hoặc với Nhật kí ĐặngThuỳ Trâm (một tác phẩm kí thời hiện đại)

IV. TƯ LIỆU THAM KHẢO

“… Khoảng năm Giáp Ngọ (1774), ất Mùi (1775) trong nước vô sự, Trịnh Sâm lưu ý về việc chơi đèn đuốc, thường ngự chơi các li cung ở trên Tây Hồ, núi Tử Trầm, núi Dũng Thúy; việc xây dựng đình đài khởi làm luôn mãi. Mỗi tháng ba bốn lần, Vương ngự chơi cung Thụy Liên trên bờ Tây Hồ, binh lính dàn hầu quanh bốn mặt bờ hồ, các kẻ nội thần thì đều bịt khăn, mặc áo đàn bà, dàn bày bách hóa chung quanh bờ hồ để bán.

Thuyền ngự đi đến đâu thì các quan hỗ tụng đại thần tùy ý ghé vào bờ mua bán các hóa vật như các cửa hàng buôn trong chợ. Cũng có lúc bọn nhạc công ngồi trên gác chuông chùa Trấn Quốc, hay ngồi ở bóng cây bến đá nào đó, hòa vài khúc nhạc âm.

Thời ấy, phàm bao nhiêu những loài trân cầm, dị thú, cổ mộc, quái thạch và chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian đều cho thu lấy, không thiếu một thứ gì. Từng thấy lấy một cây đa to, cành lá rườm rà, từ bên bắc chở qua sông đem về. Nó giống như một cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng, phải một cơ binh mới khiêng nổi, lại phải bốn người đi kèm đều cầm gươm, cầm thanh la để đốc thúc quân lính khiêng cho có điều độ. Trong phủ chúa tùy chỗ mà điểm xuyết bày vẽ ra hình núi non bộ trông như bến bể đầu non. Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết là cái triệu bất tường! Kẻ hoạn quan cung giáp lại thường nhờ gió bẻ măng, ra ngoài dậm dọa. Họ dò xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh, chim tốt khướu hay thì biên ngay hai chữ “phụng thủ” vào lồng chim hay chậu cây. Đêm đến, các cậu trèo qua cung tường lẻn ra, sai bọn tay chân đem lính đến lấy phăng đi, rồi buộc cho (chủ nhà) cái tội đem dìm giấu các vật cung phụng để dọa dẫm lấy tiền. Nếu hòn đá hoặc cây cối gì to lớn quá thì thậm chí phải phá nhà hủy tường để khiêng ra. Các nhà giàu có bị vu cho là đem giấu vật cung phụng, thường phải bỏ của ra kêu van chí chết, có khi phải đập bỏ núi non bộ hoặc đốt bỏ cây cảnh để tránh khỏi phải tai vạ. Nhà ta ở phường Hà Khẩu, huyện Thọ Xương, trước nhà tiền đường có trồng một cây lê, cao vài mươi trượng, lúc nở hoa trắng xóa thơm lừng, trước nhà trung đường có trồng hai cây lựu trắng và lựu đỏ kết quả trông rất đẹp, bà cung nhân ta đều sai chặt đi cả, cũng là vì cớ ấy.”

(Phạm Đình Hổ – Việc cũ trong phủ chúa Trịnh)

0