Soạn bài Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang trang 127 SGK Văn 9
Soạn bài Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang trang 127 SGK Văn 9 4. Tuy cuộc sống cam go như thế, nhưng tuyệt nhiên Rô-bin-xơn không 06 lấy một lời than vãn nào. ...
Soạn bài Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang trang 127 SGK Văn 9
4. Tuy cuộc sống cam go như thế, nhưng tuyệt nhiên Rô-bin-xơn không 06 lấy một lời than vãn nào.
1. Bài văn có thể chia làm 4 đoạn.
Đoạn 1: Mở đầu.
Đoạn 2. Trang phục (Đoạn 2, 3 trong văn bản).
Đoạn 3: (Từ “Quanh người tôi... đến “bên khẩu súng của tôi”): Trang bị. Đoạn 4: (Phần còn lại) Diện mạo.
Sau khi xem xét, nếu phải tách đoạn cuốĩ cùng của đoạn văn thành hai đoạn riêng biệt thì nên ngắt ra ở chỗ đã ngắt như bài trên.
2. Qua bố cục của bài văn, người đọc thấy rõ không kể phần mở đầu, trước tiên tác giả nói đến trang phục (mũ, quần áo, giày dép) từ trên xuống dưới, tiếp đó là trang bị nghĩa là các vật mang theo rồi sau hết mới đến diện mạo của mình.
Phần diễn tả diện mạo cũng chỉ chiếm một dung lượng ít ỏi (độ mười đòng). Nói thoáng qua về nước da, trên bộ mặt, Rô-bin-xơn chỉ đặc tả bộ ria mép... Điều này là do chủ ý Rô-bin-xơn muốn giới thiệu với người đọc một bộ dạng ăn mặc kì khôi và những đồ lề lỉnh kỉnh là chủ yếu. Ngoài ra còn do phương thức tự sự ngôi thứ nhất. Rô-bin-xơn tự miêu tả về mình do đó, chỉ có thể miêu tả những gì mình trông thấy được.
3. Như đã biết, Rô-bin-xơn sống một mình trên đảo hoang hơn một năm rồi. Mọi thứ trang phục của chàng lúc này đều làm bằng da dê. Hẳn là trên đảo hoang này có rất nhiều dê rừng. May mà Rô-bin-xơn còn giữ được cây súng, thuốc súng và đạn ghém. Nhờ đó mà nhân vật này duy trì được cuộc sống của mình trong nhiều năm bằng cách săn bắn và bắt cả da dê để làm trang phục nữa. Ngoài ra, Rô-bin-xơn còn trồng được lúa mì nhờ mấy hạt lúa tình cờ còn sót lại trong những thứ vớt vát từ con tàu đắm và đặc biệt hơn nữa, chàng còn bẫy được dê rừng về nuôi cho chúng sinh sản.
Ta chú ý trang bị của Rô-bin-xơn. Hai cái quai hai bên thắt lưng chỗ để treo kiếm và dao găm lại được ông dùng'để treo một cái cưa nhỏ và một cái rìu nhỏ. Như vậy, trên đảo hoang, hẳn là Rô-bin-xơn không có kẻ thù. Cái cưa, cái rìu đã giúp ông chặt cây, cưa gỗ dựng lều, rào giậu chỗ ở để phòng thú dữ và sau này còn rào chỗ nuôi dê.
4. Tuy cuộc sống cam go như thế, nhưng tuyệt nhiên Rô-bin-xơn không có lấy một lời than vãn nào. Với trang phục kì dị kèm theo các đồ lề linh kỉnh cả rìu với cưa chúng ta ngỡ ông là một vị chúa đảo trị vì oai vệ trên đảo quốc của mình.
Giọng kể chuyện của Rô-bin-xơn đượm vẻ hài hước thể hiện tinh thần lạc quan của ông. Đặc biệt là đoạn Rô-bin-xơn nói về bộ ria mép với cách chăm sóc, xén tỉa. Ông còn so sánh thật buồn cười lá bộ ria mép to tướng, vểnh cao ấy với cái mắc áo để treo mũ.
Hoàn cảnh như Rô-bin-xơn là khó khăn cực kì. ở hoàn cảnh ấy rât nhiều người sẽ nản lòng, tuyệt vọng. Nhưng Rô-bin-sơn khác hẳn. Ông bám chắc cuộc sống, phân đấu làm cho cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn. Ông không bị thiên nhiên khuất phục mà đã khuất phục thiến nhiên.
Đó là bài học chúng ta rút ra được từ câu chuyện về ông.