Soạn bài Hai cây phong
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN 1. Về tác giả Ai-ma-tốp là nhà văn nước Cộng hoà Cư-rơ-gư-xtan, một nước cộng hoà ở vùng Trung á, thuộc Liên Xô trước đây. Hoạt động văn học của Ai-ma-tốp bắt đầu từ năm 1952, khi ông là sinh viên Trường Đại học Nông nghiệp Cư-rơ-gư-xtan. Từ năm 1956 đến năm 1958 ông học Trường ...
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN 1. Về tác giả Ai-ma-tốp là nhà văn nước Cộng hoà Cư-rơ-gư-xtan, một nước cộng hoà ở vùng Trung á, thuộc Liên Xô trước đây. Hoạt động văn học của Ai-ma-tốp bắt đầu từ năm 1952, khi ông là sinh viên Trường Đại học Nông nghiệp Cư-rơ-gư-xtan. Từ năm 1956 đến năm 1958 ông học Trường viết văn M. Goóc-ki ở Mát-xcơ-va. Sau khi tốt nghiệp (1959), Ai-ma-tốp làm phóng viên báo Sự thật thường trú tại Cư-rơ-gư-xtan. Tác phẩm đầu tiên khiến ...
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Về tác giả
Ai-ma-tốp là nhà văn nước Cộng hoà Cư-rơ-gư-xtan, một nước cộng hoà ở vùng Trung á, thuộc Liên Xô trước đây. Hoạt động văn học của Ai-ma-tốp bắt đầu từ năm 1952, khi ông là sinh viên Trường Đại học Nông nghiệp Cư-rơ-gư-xtan. Từ năm 1956 đến năm 1958 ông học Trường viết văn M. Goóc-ki ở Mát-xcơ-va. Sau khi tốt nghiệp (1959), Ai-ma-tốp làm phóng viên báo Sự thật thường trú tại Cư-rơ-gư-xtan. Tác phẩm đầu tiên khiến Ai-ma-tốp nổi tiếng là tập truyện Núi đồi và thảo nguyên (được tặng giải thưởng Lê-nin về văn học năm 1963). Các tác phẩm chủ yếu tiếp theo là: Cánh đồng mẹ (1963), Vĩnh biệt Gun-xa-rư (1967), Con tàu trắng (1970),… Đề tài chủ yếu trong các truyện ngắn của Ai-ma-tốp là cuộc sống khắc nghiệt nhưng cũng đầy chất lãng mạn của người dân vùng đồi núi Kưr-gư-xtan, tình yêu, tình bạn, tinh thần dũng cảm vượt qua những thử thách hi sinh thời chiến tranh, thái độ tích cực đấu tranh của tầng lớp thanh niên, trước hết là nữ thanh niên để thoát khỏi sự ràng buộc của những tập tục lạc hậu.
Nhiều tác phẩm của ông từ lâu đã rất quen thuộc với bạn đọc Việt Nam như Cây phong non trùm khăn đỏ, Người thầy đầu tiên, Con tàu trắng,…
2. Về tác phẩm:
a) Phần trích Hai cây phong trong sách giáo khoa do người biên soạn đặt. Bối cảnh của truyện là một vùng quê hẻo lánh thuộc Cư-rơ-gư-xtan giữa những năm 20 của thế kỉ XX khi nơi đây tư tưởng phong kiến và gia trưởng còn nặng nề, do đó phụ nữ và trẻ mồ côi bị coi thường và rẻ rúng.
b) Hình ảnh hai cây phong được miêu tả với một tâm trạng đầy xúc động của người kể chuyện. Nó dẫn dắt người đọc trở lại với 40 năm trước để chứng kiến những tình cảm sâu nặng giữa thầy Đuy-sen và cô trò nhỏ An-tư-nai. Người kể chuyện xưng “tôi” (có lúc là “chúng tôi”) cũng là người gắn bó với làng quê Ku-ku-rêu, nơi có hai cây phong thân thuộc, gắn với bao kỉ niệm tuổi thơ của mình.
c) Trong văn bản này, mặc dù không thể đồng nhất giữa “tôi” (hoặc “chúng tôi”) với tác giả song rõ ràng là nhà văn đã uỷ thác cho người kể chuyện xưng “tôi” một vai trò quan trọng: người chứng kiến và kể lại câu chuyện. Dưới hình thức kể chuyện này, tác giả như là người đứng ngoài, không can dự vào câu chuyện nhưng thực chất là đã ẩn mình (ở một mức độ nào đó) vào “tôi”. ở đây, bằng một giọng trầm tha thiết, “tôi” say sưa kể về làng Ku-ku-rêu, về hai cây phong với mạch xúc cảm dào dạt. Từ đoạn “Vào năm học cuối cùng…” đến “… sau chân trời xa thẳm biêng biếc kia”, người kể lại xưng “chúng tôi”. Trước đó, là xưng “tôi” (lưu ý ở đầu bài văn có hai lần “chúng tôi” xuất hiện nhưng nó nằm trong cụm làng Ku-ku-rêu chúng tôi chứ không phải là ngôi xưng để kể). Đến cuối văn bản, người kể trở lại với hình thức nhân xưng “tôi”. Thực chất, đứng ở góc độ kể thì “chúng tôi” cũng từ “tôi” mà ra. Khi hồi nhớ về kỉ niệm cùng “bọn con trai” ngày ấy, người kể xưng “chúng tôi” nghĩa là nhân danh cho cả những đứa trẻ cùng trang lứa. Dù thế thì xúc cảm cụ thể, cái nhìn cụ thể vẫn thuộc về “tôi” – Cũng có thể nói đến sự lồng ghép của hai mạch kể (“tôi” và “chúng tôi”). Mạch kể “chúng tôi” được lồng vào giữa, nằm trong sự chi phối của mạch kể “tôi”. Chúng ta được chiêm ngưỡng một bức tranh tuyệt đẹp, ở đó hình ảnh hai cây phong được đặt trong nền cảnh làng Ku-ku-rêu với không gian bao la của cao nguyên, thung lũng, đồng cỏ…
d) Bằng con mắt của một hoạ sĩ thực thụ và mối giao cảm tinh tế, người kể chuyện đã phác hoạ thật tài tình vẻ đẹp, thần sắc của hai cây phong: “rì rào”, “thì thầm”, “im bặt”, “thở dài”, “reo vù vù”, “tim đập rộn ràng”, “vẻ thảng thốt”, “vui sướng”, “xào xạc”… Tất cả những từ ngữ ấy khiến hình ảnh hai cây phong trở nên “sinh động khác thường”.
II. RÈN LUYỆN KỸ NĂNG
1. Tóm tắt:
Đoạn trích thể hiện tình yêu quê hương đất nước thông qua những cảm xúc bồi hồi của người kể về hai cây phong từng gắn bó với tuổi học trò trong kí ức và trong hiện tại.
4. Cách đọc:
– Khi đọc bài văn cần chú ý giọng đọc bồi hồi xúc động.
– Về ngôi kể: cần phân biệt nhân vật người kể chuyện khi thì xưng “tôi” (tự giới thiệu mình là hoạ sĩ), khi thì xưng “chúng tôi” (vẫn là người kể chuyện đó, nhưng lại kể nhân danh là một đứa trẻ trong số bọn con trai ngày trước).