24/05/2018, 23:20

Quan niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ

Hiên nay, ở Việt Nam nói riêng và toàn bộ Thế Giới nói chung, xét cả về phương diện thực tế và lý luận chưa có một sự thống nhất các chỉ tiêu nhằm xác định loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ(DNVVN). Có quan điểm gắn việc phân loại quy mô doanh nghiệp với đặc ...

Hiên nay, ở Việt Nam nói riêng và toàn bộ Thế Giới nói chung, xét cả về phương diện thực tế và lý luận chưa có một sự thống nhất các chỉ tiêu nhằm xác định loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ(DNVVN). Có quan điểm gắn việc phân loại quy mô doanh nghiệp với đặc điểm kinh tế kĩ thuật của từng ngành và dựa trên cơ sở hai tiêu thức vốn và lao động. Các nước có quan điểm đánh giá quy mô doanh nghiệp theo các tiêu thức vốn và lao động dựa trên cơ sở đặc tính kinh tế kĩ thuật của từng ngành Nhật Bản, Malayxia, Thailan . . Chẳng hạn, ở Nhật Bản, theo quy định của Bộ luật cơ bản về DNVVN, trong lĩnh vực công nghiệp chế biến và khai thác thì doanh nghiệp sử dụng dưới 300 lao động, có số vốn sản xuất kinh doanh dưới 100triệu yên thuộc doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, còn ở Malayxia, doanh nghiệp có số vốn nhỏ hơn 500 Ringit và sử dụng dưới 50 lao động là DNVVN.

Lại có quan niệm đánh giá quy mô doanh nghiệp không phải chỉ theo từng ngành kinh tế kĩ thuật, dựa vào tiêu thức lao động và vốn mà cả doanh thu của doanh nghiệp. Chẳng hạn, Đài loan quy định trong ngành công nghiệp chế tạo, xây dựng và khai khoáng thì doanh thu không vượt quá 1, 5 triêu USD, vốn không vượt quá 120 Tệ Đài Loan và sử dụng dưới 50 lao động được xếp vào doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Cũng có quan điểm phân loại quy mô doanh nghiệp theo từng ngành nghề kinh doanh và tiêu thức lao động sử dụng . Quan niệm này tồn tai chủ yếu ở Hongkong, Hàn quốc. . DNVVN trong các ngành công nghiệp ở Hongkong và Hàn Quốc là những doanh nghiệp sử dụng dưới100 lao động.

Khi sự hợp tác kinh tế giữa các quốc gia trong các khối kinh tế khu vực gia tăng và khi các nền kinh tế hội nhập thì các định nghĩa về DNVVN phải đi đến thống nhất, ít nhất là trong cùng một khối kinh tế. Trong một nỗ lực gần đây nhằm xoá bỏ những mâu thuẫn và ngăn chặn sự bóp méo trong cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, Liên minh Châu Âu đã đưa ra một định nghĩa chung đối với sự trợ giúp cho các chương trình DNVVN ở địa phương vào năm 1996. Đinh nghĩa này cho thấy một thực tế rằng các DNVVN thường được chia thành nhiều nhóm theo các hạng mục quy mô khác nhau. Theo đinh nghĩa mới về DNVVN của Liên minh Châu Âu thì các doanh nghiệp được chia thành các hạng mục sau:

  • Doanh nghiệp vi mô: <10 công nhân
  • Doanh nghiệp nhỏ : < 50 công nhân và doanh thu hàng năm<7 MECU. Tổng số chi phí hàng năm: < 5 MEC
  • Doanh nghiệp vừa: < 250 công nhân và doanh thu hàng năm < 40 MECU . Tổng số chi phí hàng năm < 27 MECU

Thêm vào đó, định nghĩa mới này yêu cầu các doanh nghiệp nhỏ phải là các doanh nghiệp độc lập. Một doanh ngnhiệp độc lập là một doanh nghệp không bị các doanh nghiệp hoặc các nhóm doanh nghiệp hoặc các nhóm doanh nghiệp khác sở hữu 25% hoặc hơn nữa số tài sản của doanh nghiệp đó.

Cho tới nay chúng ta chưa tổng kết trên phương diện lí luận về vấn đề quy mô doanh nghiệp của nước ta: thế nào là quy mô lớn?Thế nào là quy mô vừa và thế nào là quy mô nhỏ? Tuy nhiên, do đòi hỏi của hoạt động quản trị kinh doanh mà trong thực tiễn cũng có một số tiêu chí lẻ tẻ đánh giá quy mô của doanh nghiệp. Chẳng hạn Ngân hàng công thương quy định trong hoạt động tín dụng các doanh nghiẹp có vốn dưới 10 tỉ đồng, vốn lưu động dưới 8 tỉ đồng, số lao động dưới 500 nghìn người và doanh thu dưới 20 tỉ đồng/nămlà các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thành phố Hồ Chí Minh quy định các doanh nghiệp quy mô vừa là các doanh nghiệp có số vốn pháp định trên 1 tỉ đồng, lao động trên 100 nghìn người và doanh thu trên 10 tỉ đồng và nhỏ hơn các mức quy định đó là các doanh nghiệp nhỏ. Các HTX thì quy định có vốn từ 100-300 triệu đồng, sử dụng 5-50 lao động. Các chuyên gia kinh tế và các nhà hoạch định chính sách qủan lý đưa ra tiêu chuẫn sác định quy mô vưà và nhỏ của các doanh nghiệp cũng rất khác nhau, dao đọng từ 50 lao động và số vốn 300 triệu đồng đến 100 lao động và số vốn dưới 1 tỉ đồng

Phát triển DNVVN trong quá trình CNH-HĐH ở Việt NamNguyễn Đình Phan-Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 215-Tháng 4/96
.

Đã đến lúc Nhà nước cần có quy định về mặt pháp lý: chỉ tiêu đánh giá và tiêu chuẩn cụ thể để phân biệt các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tại sao chúng ta lại cần một định nghĩa chính xác? Bởi vì vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất lớn, chúng có rất nhiều ưu điểm và chúng hoạt động như là động lực cho sự phát triển và cho sự chuyển đổi cơ cấu của nền kinh tế. Chúng cũng dễ mắc phải thất bại trên thương trường hơn những đối thủ cạnh tranh có quy mô lớn. Do dó chính phủ phải có các biện pháp hỗ trợ, giúp đỡ khắc phục những hạn chế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ0 đó. Một định nghiã chính xác sẽ giúp tạo ra một mục tiêu hỗ trợ rõ ràng của nhà nước.

- Theo em, DN nhỏ là doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 500 triệu đồng, doanh nghiệp vừa có số vốn dưới 10 tỉ đồng. Về lao động :DN nhỏ có số lao động thường xuyên dưới 50 người và doanh nghiệp vừa có số lao động thường xuyên dưới 500 người.

- Đặc biệt, cần phải chú ý khi xác định quy mô DNVVN tuyệt đối không được rập khuôn theo kinh nghiệm nước ngoài hoặc các tiêu thức cứng nhắc, máy móc. Đưa ra tiêu thức để phân loại quy mô DNVVN phải dựa vào tiêu thức chung của các nước trong khu vực và thế giới đồng thời phải xem xét trong điều kiện cụ thể ở Việt nam. Hạn chế lớn nhất của các tiêu thức phân loại quy mô DNVVN là tính chất ngành nghề của các doanh nghiệp. Để phù hợp với từng ngành kinh tế cần nhấn mạnh đến tính chất quan trọng của từng tiêu thức. Ngành xây dựng và công nghiệp nhẹ: chú ý sự hợp lý hai tiêu thức vốn và lao động. Ngành thương mại dịch vụ: chú ý nhiều hơn tiêu thức doanh thu. Ngành công nghiệp: chú ý tiêu thức vốn...

0