24/05/2018, 20:15

Phương pháp xây dựng và quản lý quỹ tiền lương ý nghĩa vai trò kết cấu quỹ tiền lương trong doanh nghiệp

Theo quy định mới hiện nay ,Nhà nước không trực tiếp quản lý tổng quỹ lương của doanh nghiệp ,doanh nghiệp tự xây dựng quỹ lương của mình. Phương pháp xác định quỹ lương dựa vào số tiền lương bình quân và số lao động bình ...

Theo quy định mới hiện nay ,Nhà nước không trực tiếp quản lý tổng quỹ lương của doanh nghiệp ,doanh nghiệp tự xây dựng quỹ lương của mình.

Phương pháp xác định quỹ lương dựa vào số tiền lương bình quân và số lao động bình quân kỳ kế hoạch.

Phương pháp này dựa vào tiền lương bình quân cấp bậc chức vụ của kỳ báo cáo và tiến hành phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới tiền lương kỳ kế hoạch. Sau đó dựa vào số lao động bình quân kỳ kế hoạch để tính ra quỹ lương kỳ kế hoạch:

QTLKH : Quỹ tiền lương kế hoạch (nghìn đồng)

ITL1: Chỉ số tiền lương kỳ kế hoạch.

TL0 : Tiền lương bình quân kỳ báo cáo (nghìn đồng)

TL1 : Tiền lương bình quân kỳ kế hoạch(nghìn đồng)

T1 : Số lao động bình quân kỳ kế hoạch (ngưòi).

Trước đây doanh nghiệp thường áp phương pháp này để tính quỹ lương, sau đó trình lên Nhà nước việc tăng hay giảm quỹ lương là do cấp trên xét duyệt .

Phương pháp xác định quỹ lương dựa vào đơn giá sản phẩm :

Từ cuối năm 1990,theo quyết định của Chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng – quyết định 317 ngày 1/9/1990 , có một số thay đổi về tiền lương như sau các doanh nghiệp tự xây dựng quỹ tiền lương của mình dựa vào đơn giá tiền lương có điều chỉnh tuỳ thuộc vào biến động thị trường.

QTLKH : Quỹtiền lương kế hoạch theo đơn giá (nghìn đồng)

ĐGi :Đơn giá sản phẩm loại i năm kế hoạch (nghìn đồng)

SPi : Số lượng sản phẩm loại i năm kế hoạch.

Phương pháp xây dựng quỹ lương dựa vào đơn giá sản phẩm căn cứ vào số lượng từng loại sản phẩm để tính tiền lương từng loại đó sau đó cộng toàn bộ tiền lương của tất cả các loại sản phẩm sẽ có tổng tiền lương .

Ưu điểm: Phương pháp này cho ta xác định quỹ lương dựa vào đơn giá ,sản lượng dễ tính ,đơn giản.Chỉ cần thống kê.

Sản lượng năm kế hoạch và đơn giá mà doanh nghiệp xây dựng là có thể xác định được.

Nhược điểm: Chưa tính đến sản phẩm dở dang mà chỉ tính đến sản phẩm đầy đủ. Do đó, khi số sản phẩm dở dang quá nhiều, số chênh lệch sản phẩm làm dở dang tăng lên theo kế hoạch, làm cho chi phí lao động cũng tăng lên. Vì vậy quỹ tiền lương cũng tăng theo.

Phương pháp tăng thu từ tổng chi:

Thực chất của phương pháp này là lấy tổng thu trừ tổng chi phần còn lại sẽ được chia đều làm 2 phần: Quỹ lương và các quỹ khác. Phương pháp này được dùng phổ biến nhất mà mọi doanh nghiệp có thể làm được:

QTL + K = ( C+V+m ) - (( C­1 + C2) + Các khoản nộp)

QTL + K: Quỹ tiền lương và quỹ khác ( nghìn đồng )

C + V + m: Tổng doanh thu của xí nghiệp sau khi bán hàng trên thị trường ( nghìn đồng )

C1: Chi phí khấu hao cơ bản.

C2: Chi phí vật tư, nguyên liệu, năng lượng ( nghìn đồng )

Tính theo chi phí lao động :

Phương pháp này dựa vào lượng lao động chi phí ( tính theo giờ mức) của từng loại sản phẩm trong kỳ kế hoạch và xuất lương giờ bình quân của từng loại sản phẩm để tính lương của từng loại sản phẩm rồi tổng hợp lại:

QTLKH : Quỹ tiền lương kỳ kế hoạch (nghìn đồng)

SGT : Lượng lao động chi phí của sản phẩm ( giờ công ).

Ti : Suất lương giờ bình quân sản phẩm.

Giao khoán quỹ tiền lương thể hiện với một chi phí tiền lương nhất định đòi hỏi người lao động phải hoàn thành một khối lượng với chất lượng quy định trong một thời gian nhất định.

Việc giao khoán quỹ lương kích thích người lao động quan tâm đến kết quả sản phẩm, tiết kiệm lao động sống và tự chủ trong sản xuất:

QTLKH = ĐGTH X SLKH

Trong đó:

QTLKH : Quỹ tiền lương kế hoạch giao cho đơn vị ( nghìn đồng )

SLKH : Sản lượng kế hoạch được giao.

ĐGTH : Đơn giá tổng hợp cuối cùng.

ĐGTH = ĐGi + CFQL + CFPV.

ĐGi : Đơn giá bước công việc thứ i.

CFPV : Chi phí phục vụ cho một đơn vị sản phẩm.

CFQL : Chi phí quản lý tính cho một đơn vị sản phẩm.

Sau đó quỹ lương được giao cho doanh nghiệp, doanh nghiệp sẽ tiến hành chia lương cho người lao động.

Quy trình phân bố:

Với tổng quỹ lương, doanh nghiệp phân bố quỹ lương cho từng người lao động như sau:

- Trước hết tính tiền lương bình quân cho từng người trong doanh nghiệp.

- Chia tổng lương làm 2 bộ phận: tiền lương của bộ phận lao động trực tiếp và tiền lương của bộ phận lao động gián tiếp.

- Chia lương trong khu vực trực tiếp và gián tiếp ( tính theo đồng/tháng/người ), xác định mức tiền lương bình quân từng người ở từng khu vực.

- Cuối cùng là so sánh thu nhập tiền lương giữa lao động trực tiếp và lao động gián tiếp, kỳ trước và kỳ sau, đảm bảo tốc độ tăng tiền lương bình quân kỳ sau cao hơn kỳ trước. Tốc độ tăng năng suất lao động phải đảm bảo cao hơn tốc độ tăng tiền lương bình quân.

Phương pháp chia cho cán bộ công nhân viên.

- Đối với lao động gián tiếp:

Lâu nay các doanh nghiệp vẫn áp dụng trả lương theo bảng lương quy định thống nhất của Nhà nước, tuy giữa các doanh nghiệp có nhiều phương pháp chia lương khác nhau, song nhìn chung ở nhiều doanh nghiệp về thực chất lương của cán bộ gián tiếp vẫn thấp. Để khắc phục bộ máy cồng kềnh làm việc kém hiệu quả làm cho tiền lương của bộ phận quản lý giảm và không đảm bảo sử dụng lao động có hiệu quả, người ta áp dụng phương pháp giao khoán quỹ lương cho bộ phận lao động quản lý theo một đơn giao khoán. Với phương pháp này đã kích thích các phòng ban giảm bớt số người làm việc và nâng cao hiệu quả sử dụng lao động hiện có.

Đối với lao động trực tiếp, có 2 hình thức trả lương hay được áp dụng là: trả lương theo sản phẩm và trả lương theo thời gian:

+ Trả lương theo thời gian: Tiền lương người lao động nhận được căn cứ vào thời gian thực tế làm việc của người lao động, mức tiền lương cho một đơn vị thời gian.

+ Trả lương theo sản phẩm: tiền lương người lao động nhận được căn cứ vào đơn giá tiền lương và số lượng sản phẩm hoàn thành.

Trong đó:

TlSP : Tiền lương theo sản phẩm ( nghìn đồng )

SLi : Sản lượng sản phẩm.

ĐGi : Đơn giá tiền lương loại sản phẩm i.

n : Số loại mặt hàng sản xuất.

Ưu điểm: Kích thích người lao động làm việc, thúc đẩy doanh nghiệp cải tiến công nghệ, tổ chức lao động, tổ chức quản lý.

Nhược điểm: Rất khó xác định đơn giá một cách chính xác, việc tính toán rất phức tạp.

Để quản lý tốt quỹ tiền lương, người ta phải phân chia quỹ tiền lương của doanh nghiệp thành các bộn phận khác nhau nhằm mục đích xem xét đầy đủ các yếu tố ảnh hưởng đến tổng quỹ lương ở những bộ phận này từ đó tìm ra các biện pháp quản lý tiền lương được tốt hơn:

Quỹ lương cơ bản bao gồm: Tất cả tiền lương được tính theo chế độ chính sách, thang bảng lương Nhà nước quy định và xí nghiệp xây dựng, quỹ lương cơ bản thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng quỹ lương của doanh nghiệp. Quỹ lương cơ bản có tác dụng đảm bảo cuộc sống cho người lao động ở mức tối thiểu góp phần tái sản xuất sức lao động của người lao động.

Quỹ tiền lương biến đổi là phần tiền lương tính cho người lao động gắn với kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tại các thời điểm. Quỹ lương biến đổi phụ thuộc chủ yếu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Phần quỹ lương này thường chiếm tỷ trọng ít hơn so với phần quỹ lương cơ bản.

Quỹ phúc lợi: Là số tiền mà doanh nghiệp trả cho người lao động ngoài phần lương, thưởng, trợ cấp. Quỹ phúc lợi có tác dụng động viên tinh thần của công nhân làm cho người lao động gắn bó với doanh nghiệp nâng cao đời sống vật chất và tinh thần.

Quỹ tiền thưởng là tổng số tiền mà doanh nghiệp trả cho người lao động ngoài tiền thưởng, trợ cấp nhằm mục đích nâng cao năng suất lao động.

Quỹ trợ cấp: Là tổng số tiền mà doanh nghiệp trả cho người lao động ngoài tiền lương, thưởng. Tiền trợ cấp cho người lao động hiện nay gồm: trợ cấp khó khăn, trợ cấp sinh đẻ, trợ cấp ốm đau .v.v.

Đất nước ta chuyển dần từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Để đứng vững trong cơ chế thị trường có sự cạnh tranh khốc liệt, gay gắt thì các doanh nghiệp phải tìm cho mình một hướng đi đúng mới có thể đứng vững được. Vì vậy các nhà quản lý doanh nghiệp cần phải tìm mọi biện pháp để hạn chế tối đa các chi phí đồng thời phải tăng cường cải tiến mẫu mã, chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung. Một trong các biện pháp để giảm các chi phí sản xuất là phải giảm chi phí tiền lương.

Doanh nghiệp không ngừng giảm giá thành sản xuất sản phẩm, giảm các chi phí đầu vào trong đó có giảm chi phí về tiền lương trên một đơn vị sản phẩm . Để đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thông thường chúng ta căn cứ vào chỉ tiêu lợi nhuận thu được, chỉ tiêu chi phí tiền lương của doanh nghiệp trên một đơn vị sản phẩm và tổng quỹ lương của doanh nghiệp, thu nhập bình quân của một lao động là bao nhiêu, điều kiện lao động, vệ sinh và an toàn lao động, các chế độ khác do Nhà nước quy định. Tất cả các chỉ tiêu đó tổng hợp lại mới có thể đánh giá chính xác hiệu quả hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp. Trong các chỉ tiêu trên thì chỉ tiêu tổng quỹ lương và chi phí tiền lương trên một đơn vị sản phẩm là một trong các chỉ tiêu được chú ý hơn cả. Bởi chỉ tiêu này nói lên hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp trong việc sử dụng các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất.

Nếu một doanh nghiệp không xây dựng và quản lý tốt số tiền lương thì doanh nghiệp sẽ không đứng vững trong cơ chế thị trường bởi có sự cạnh tranh khốc liệt và quy luật tự đào thải. Vì vậy việc xây dựng và quản lý quỹ tiền lương đặt ra như một vấn đề cấp thiết đối với tất cả các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường.

Trong cơ chế thị trường mọi yếu tố sản xuất đều trở thành hàng hoá, sức lao động của con người cũng là một hàng hoá đặc biệt. Do vậy thông qua việc trả lương doanh nghiệp thúc đẩy, nâng cao, động viên tinh thần làm việc của người lao động, sử dụng chính xác tiền lương, tiền thưởng làm đòn bẩy kinh tế có hiệu quả nhất để nâng cao ý thức, tinh thần, thái độ, trách nhiệm của người lao động trong quá trình sản xuất.

0