Phát biểu cảm nghĩ về truyện “Sống chết mặc bay” – Văn mẫu lớp 7
Phát biểu cảm nghĩ về truyện “Sống chết mặc bay” – Văn mẫu lớp 7 Phát biểu cảm nghĩ về truyện "Sống chết mặc bay" – Bài số 1 Bước vào thế kỉ XX, văn học nói chung, truyện (truyện ngắn, truyện dài) Việt Nam nói riêng có nhiều đổi mới, mang tính hiện đại. Truyện ngắn hiện đại thiên về ...
Phát biểu cảm nghĩ về truyện “Sống chết mặc bay” – Văn mẫu lớp 7
Phát biểu cảm nghĩ về truyện "Sống chết mặc bay" – Bài số 1
Bước vào thế kỉ XX, văn học nói chung, truyện (truyện ngắn, truyện dài) Việt Nam nói riêng có nhiều đổi mới, mang tính hiện đại. Truyện ngắn hiện đại thiên về tính chất hư cấu, cốt truyện phức tạp hơn, khắc hoạ được nhiều hình tượng, chi tiết sinh động nhằm phát hiện bản chất trong quan hệ nhân sinh, trong đời sống tâm hồn con người phong phú, tinh tế hơn truyện cổ tích, truyện ngắn, tiểu thuyết thời xưa. Một trong những tác phẩm mở đầu cho truyện ngắn hiện đại là truyện Sống chết mặc hay của Phạm Duy Tốn.
Tác phẩm kể chuyện một viên quan phủ đang làm nhiệm vụ cai quản, chỉ đạo nhân dân đắp đê chống bão lụt ở một vùng sông nước Bắc Bộ trong một đêm vào đầu thế kỉ XX. Câu chuyện có thể chia ba đoạn.
Đoạn một : từ "Gần một giờ đêm…" đến "… Khúc đê này hỏng mất" : nguy cơ đê vỡ và sự chống đỡ tuyệt vọng của người dân.
Đoạn hai : từ "Ấy, lũ con dân…" đến "… Điếu mày" : cảnh quan phủ và nha lại đánh tổ tôm trong khi "đi hộ đê".
Đoạn ba : phần còn lại : cảnh đê vỡ, nhân dân lâm vào tình trạng thảm sầu.
Với tiêu đề Sống chết mặc bay, dường như tác giả Phạm Duy Tốn muốn tập trung phát hiện và nghiêm khắc phê phán thái độ vô trách nhiệm, bỏ mặc nhân dân trong tình cảnh khốn cùng của một viên quan phủ khi xuống địa phương chỉ đạo việc hộ đê. Đọc tác phẩm, chúng ta nhận rõ nhà văn đã xây dựng các chi tiết, tình huống tương phản, tăng cấp rất đặc sắc. Hai mặt tương phản đó là: trong khi nhân dân phải vật lộn căng thẳng, vất vả đến cực độ trước bão lụt thì viên quan phủ cùng nha lại, chánh tống – những kẻ chức sắc ở địa phương – say sưa cờ bạc, không mảy may nghĩ tới việc chỉ đạo dân "hộ đê". Đúng là hai bức tranh đời tương phản, đối lập gay gắt, khiến người đọc phải suy ngẫm và xúc động…
Bức tranh thứ nhất, cảnh nhân dân chống bão lụt: về thời gian, đây là lúc "gần một giờ đêm" nghĩa là thời điểm khuya khoắt, mà khi bình thường, mọi người đang ngủ say. Xác định thời gian nửa đêm như thế, nhà văn muốn nói rằng : cuộc hộ đê của nhân dân nơi đây đã kéo dài suốt cả ngày đến tối, tới tận đêm khuya mà chưa được ngơi nghỉ. Nặng nề và căng thẳng biết bao ! Trong khi đó, mưa, gió mỗi lúc một mạnh. "Mưa tầm tã", rồi lại "trên trời thời vẫn mưa tầm tã trút xuống". Phối hợp với mưa, nước sông cũng mỗi lúc một dâng cao. "Nước sông Nhị Hà lên to quá" rồi lại "nước cứ cuồn cuộn bốc lên". Giữa cảnh trời, nước dữ dằn, bạo liệt như thế, công cuộc hộ đê của nhân dân diễn ra thế nào ? Nhốn nháo, căng thẳng, vất vả, cơ cực, khốn khổ, hiểm nguy vô cùng ! "Hằng trăm nghìn con người … kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy… người nào người nấy lướt thướt như chuột lột… Trống đánh liên thanh, ốc thổi vô hổi, tiếng người xao xác gọi nhau…". Ngôn ngữ miêu tả rất tập trung. Những tính từ, động từ dồn dập, nối nhau : "tầm tã… tầm tã… cuồn cuộn, đội, vác, đắp, cừ,… bì bõm", kết hợp một hình ảnh so sánh "người nào người nấy lướt thướt như chuột lột" khiến cho người đọc có cảm tưởng được trực tiếp nhìn thấy, nghe thấy, và đang sống giữa một cuộc đắp đê chống bão lụt có thật. Cùng với những từ ngữ, câu văn tả thực, nhà văn điểm vào vài ba câu cảm thán "xem chừng núng thế lắm… không khéo thì vỡ mất… Tình cảnh trông thật là thảm … Than ôi ! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời. Lo thay ! Nguy thay !…". Sự yếu kém của đê điều, sức lực của con người trước thiên tai mỗi lúc một thê thảm, rất đáng lo ngại, rất đáng xót thương ! Phạm Duy Tốn đã kết hợp ngòi bút tả thực với biểu cảm, trữ tình, dẫn người đọc vào trung tâm cuộc chống đê lay động lòng người, đánh thức những tình cảm đúng đắn trong chúng ta.
Bức tranh đời thứ hai, tương phản với cảnh nhân dân chống lụt cơ cực, vất vả là cảnh viên quan phủ cùng tay chân chơi bời, cờ bạc, hưởng thụ, để dân… Sống chết mặc bay. Ở bức tranh này, nhà văn cũng dùng ngòi bút tả thực, chân thực đến… lạnh lùng, về địa điểm, bọn quan lại ấy đang ngồi ở trong đình vững chãi, đê vỡ cũng không sao. Quang cảnh, không khí tĩnh mịch, trang nghiêm, mọi người nhàn nhã đánh tổ tôm. "Đèn thắp sáng trưng ; nha lộ, lính tráng kẻ hầu người hạ đi lại…". Đặc biệt là hình ảnh viên quan phủ. Hắn "uy nghi, chễm chệ ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra để cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi…". Bên cạnh, xung quanh hắn là bọn lính lệ chầu chực đợi sai khiến và những vật dụng quý giá, đắt tiền như bát yến hấp đường phèn, khay khảm, tráp đồi mồi đựng trầu vàng, cau đậu,… Lại thêm cả đồng hồ vàng, dao chuôi ngà, ống vôi chạm bạc, ngoáy tai, ví thuốc,… Đúng là hình ảnh của một kẻ giàu sang, phú quý, mang danh đi chỉ dạo dân hộ đê mà như đi chơi, để khoe khoang của cải. Đúng là hắn đi… chơi ! Giữa lúc nhân dân đang trăm thảm, nghìn sầu thì tên quan cùng đồng bọn say sưa, đắm minh trên chiếu bạc. Ngồi xung quanh hắn, một lũ tay chân nín thin thít hầu hạ quan, tạo mọi điều kiện để quan được thắng bạc. Đến thời điểm ngoài kia đê sắp vỡ, sự gắng sức của dân lên đến đỉnh điểm, thì viên quan hồi hộp dđợi chờ ván bài ù to.
Ở phần cuối bức tranh, quan phủ ngồi đợi thắng bạc, tác giả sử dụng nghệ thuật miêu tả tăng cấp rất ấn tượng, rất hồi hộp. Hình ảnh đối lập vì thế càng gay gắt. Nghe ngoài xa vẳng vào tiếng kêu vang trời, có người khẽ nói : "Bẩm, đê có khi đê vỡ!". Tên quan gắt : "Mặc kệ!". Khi một người nhà quê hớt hải chạy vào báo tin "Bẩm quan lớn đê vỡ mất rồi" thì tên quan đỏ mặt tía tai quát mắng : "Đê vỡ rồi!… thời ông cách cổ chúng mày, bó tù chúng mày!". Hắn đã quên hết nhiệm vụ giúp dân chống lụt, để chỉ đợi một quân bài. Sự đối lập giữa tình cảnh khốn khổ của dân chúng, nỗi âu lo của mọi người xung quanh và thái độ vô trách nhiệm của tên quan lên đến đỉnh điểm. Nhưng chưa dừng lại. Sự đối lập vẫn tiếp tục tăng cấp. Trong khi thầy đề "tay run cầm cập thò vào đĩa nọc…" (nghĩa là người nhân viên này cùng mọi người xung quanh rất lo sợ trước cảnh đê vỡ), thì tên quan sung sướng hả hê ngả ra những quân bài, ù một ván to. Không những thế, hắn còn vỗ tay xuống sập kêu to, miệng vừa cười vừa nói : "Ù! Thông tôm, chi chi nảy!… Điếu, mày!". Nghĩa là kẻ quan liêu, vô trách nhiệm ấy reo vui, sung sướng đến tột đỉnh được hướng thụ một món tiền lớn, giữa lúc nhân dân đau khổ cũng đến mức độ thẳm sâu, không thể đo được. Tình huống truyện diễn biến đến đây quả là căng thẳng, sự tương phản, đối lập quả là gay gắt, mâu thuẫn không thể dung hoà. Người đọc như bị cuốn vào câu chuyện và cũng cảm thấy căng thẳng, ngột ngạt, bức bối, tràn đầy nỗi tức giận, căm ghét tên quan vô trách nhiệm, tham tiền và tràn đầy tình cảm xót thương những người dân khốn khổ bị lãng quên, bị bỏ mặc… Giận và thương, hai cung bậc cảm xúc ấy dường như thấm đẫm trong từng từ ngữ, câu văn. Kết thúc truyện nhà văn viết : "Ấy, trong khi quan lớn ù ván to như thế, thì khắp mọi nơi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết ; kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh thảm sầu, kể sao cho xiết !". Câu văn kéo dài, nhấn mạnh hai bức tranh đời tương phản, vừa kể chuyện vừa miêu tả, vừa biểu ý vừa biểu cảm. Nhịp câu biền ngẫu, đối xứng lâm li, hài hoà tiếng nấc nghẹn, căm phẫn với dòng nước mắt xót đau, thương cảm.
Bằng sự khéo léo trong việc vận dụng kết hợp hai phép tương phản và tăng cấp trong nghệ thuật, tác giả Sống chết mặc bay đã lên án gay gắt tên quan phủ "lòng lang dạ thú" trước sinh mạng của người dân và bày tỏ niềm cảm thương của mình trước cảnh "nghìn sầu muôn thảm" của nhân dân do thiên tai và cũng do thái độ vô trách nhiệm của kẻ cầm quyền đưa đến. Hai bức tranh đời tương phản, trái ngược ấy đậm đà chất hiện thực và thấm đẫm cảm hứng nhân đạo, nhân văn.
Phát biểu cảm nghĩ về truyện "Sống chết mặc bay" – Bài số 2
Phạm Duy Tốn là một trong số ít những nhà văn thành công trong thể loại truyện ngắn hiện đại vào cuối thế kỉ XIX đầu XX. Truyện ngắn “Sống chết mặc bay” là một trong những tác phẩm tiêu biểu, đặc sắc nhất của ông. Bằng ngòi bút sắc sảo của mình, nhà văn đã lên án, phê phán gay gắt bọn quan lại vô lương tâm, vô trách nhiệm với nhân dân gây nên bao cảnh lầm than, bi đát cho trăm họ.
Mở đầu truyện là cảnh thiên tai ập đến dân chúng giữa đêm khuya: “Gần một giờ đêm. Trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá, khu đê làng X. thuộc phủ X. xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đã thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất”. Giữa đêm khuya, hàng trăm người kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy…lướt thướt như chuột lột”. Bên trên “mưa tầm tã như trút xuống”, ở dưới “nước cứ cuồn cuộn bốc lên”. Quả thật là một tình cảnh hết sức gian nan, vất vả cho dân làng. Thiên tai thì năm nào cũng có, nhưng thiên tai bão lũ lúc nửa đêm thế này thì ai mà không lo lắng, sợ hãi lỡ đê vỡ mất thì khủng khiếp biết nhường nào!
Trong lúc “lũ con dân đang chân lấm tay bùn, để bảo thủ lấy tính mạng gia tài “thì trong đình” đèn thắp sáng trưng, nha lệ lính tráng, kẻ hầu người hạ, đi lại rộn ràng”. Cảnh này sao quá đỗi nghiêm trang, thanh bình. Nhưng phải chi cảnh ấy ở nơi xa xôi, cách biệt với ngôi làng đang trong cảnh “nước sôi, lửa bỏng”, đằng này nó chỉ cách đó mấy trăm thước và cũng gần đê nhưng cao ráo, vững chãi. Nơi ấy, quan phụ mẫu đang ngồi chễm chệ, uy nghi, “tay trái tựa gối xếp, tay phải duỗi thẳng ra, để cho người nhà quỳ dưới đất mà gãi”. Kế bên là “bát yến hấp đường phèn, để trong khay khảm, khói bay nghi ngút”…Xung quanh các thầy đề, thầy đội…thi nhau hầu bài cung phụng quan phụ mẫu. Một lũ người vô lương tâm, vô trách nhiệm đang “ngồi mát ăn bát vàng”, bất kể dân chúng đang trong cảnh khốn cùng, bĩ cực chống chọi với thiên tai, bọn chúng vẫn ung dung, nhàn hạ, “bình chân như vại” coi như không có việc gì. Là quan phụ mẫu, được coi như cha mẹ của dân. Ấy vậy mà hắn coi “một nước bài cao, bằng mấy mươi đê lở, ruộng ngập”. Bên ngoài mưa gió ầm ầm, trời long đất lở, ai chết mặc ai. Bên trong, hắn vẫn thảnh thơi “xơi bát yến”, “ngồi khểnh vuốt râu, rung đùi…”. Cái cảnh ấy khiến ai trông thấy mà chẳng uất ức, nghẹn ngào.
Tuy nhiên, xung quanh đó một lũ quan vô lại vô tích sự đang ngồi hầu bài mà miệng không ngớt lời nịnh hót, o bế tên quan phụ mẫu. Bọn chúng tranh nhau tỏ ra cho quan lớn biết “mình vào được nhưng không dám cố ăn kìm”, “mình có đôi mà không dám phỗng qua mặt”, nhằm tâng bốc, lấy lòng quan lớn.
Bằng nghệ thuật tương phản, tác giả vẽ nên một bức tranh vô cùng sinh động: một ngôi làng đang trong cảnh mưa gió, bão lũ bao trùm, nhân dân điêu đứng, khắp nơi nước dâng lênh láng, con người, nhà cửa, trâu bò, gà vịt đang rên xiết, kêu la ầm ĩ. Ở giữa là một thủ phủ của tên quan phụ mẫu, bên trong đèn đuốc sáng trưng, trông rất trang nghiêm, người người nhàn hạ chơi tổ tôm rất đỗ sung sướng. Thật đúng là một cảnh trớ trêu! Giọng văn miêu tả của tác giả đầy mỉa mai, khinh bỉ nhưng cũng đầy chua xót.
Tên quan phụ mẫu đang say sưa với những ván bài, bỗng bên ngoài “tiếng kêu trời dậy đất”. Mọi người đều giật nảy mình, riêng hắn vẫn điềm nhiên, bình thản như không nghe thấy. Đến khi có người hớt hải chạy vào báo quan đê vỡ thì hắn giận dữ quát: “Đê vỡ rồi!…Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không?…Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy? Không còn phép tắc gì nữa à?” Hắn đuổi cổ người bẩm báo ấy và tiếp tục ván bài của mình.
Dưới ngòi bút đầy sắc sảo của tác giả, tên quan phụ mẫu hiện ra là một tên quan “lòng lang dạ thú”, vô cùng tàn nhẫn, không một chút tính người. Chúng coi dân như cỏ rác. Là quan lớn, đáng lẽ hắn phải lo cho dân chúng, chỉ đạo việc đê điều, giúp dân vượt qua thiên tai thì hắn lại ung dung hưởng lạc thú. Hắn sống sung sướng trên nỗi đau của người dân. Cuộc sống của nhân dân bị đè nặng bởi thiên tai là bởi lũ quan lại thối nát, bẩn thỉu. Họ luôn luôn phải sống trong cảnh đau khổ triền miên.
Đoạn kết là cảnh trong khi quan lớn ù ván bài to như thế, thì khắp nơi mọi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết, kẻ sống không còn chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước”. Đúng là một cảnh hãi hùng, đau xót giữa đêm khuya.
Ngòi bút miêu tả đặc sắc của tác giả đã khắc họa nên một bức tranh về cảnh lầm than, tang tóc của người dân trong cơn đại hồng thủy lúc nửa đêm. Qua đó, tác giả cũng đã vạch trần bộ mặt xấu xa, tàn ác của bọn quan lại, lũ sâu dân mọt nước sống hưởng lạc trên sự đau khổ của nhân dân.
Phát biểu cảm nghĩ về truyện "Sống chết mặc bay" – Bài số 3
Văn xuôi quốc ngữ buổi đầu đã có sự đóng góp của Phạm Duy Tốn. Truyện ngắn “Sống chết mặc bay” của ông là một trong những thành tựu đột xuất của dòng văn học hiện thực thuở sơ khai. Tác giả viết truyện ngắn này vào tháng 7/1928, được đăng tải trên báo Nam Phong số 18, tháng 12.1918.
Truyện kể chuyện một “quan phụ mẫu” ung dung ăn chơi bài bạc trong cảnh đê, nhân dân trên một vùng rộng lớn chìm đắm trong thảm họa. Tác giả đã lên án thói trách nhiệm, bộ mật vô nhân đạo của bọn quan lại trong xã hội thực dân nửa phong kiến.
Tên “ quan phụ mẫu “được miêu tả bằng những chi tiết rất hiện thực có giá trị tố cáo sâu sắc.
Sống sang trọng xa hoa: Đi hộ đê mà mang theo ống thuốc bạc, đồng hồ vàng, dao chuôi ngà, … trông mà thích mắt.
Ăn của ngon vật lạ: yến hấp đường phèn.
Sống nhàn nhã vương giả. Trong lúc hàng trăm con người đội đất, vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy, trong mưa gió lướt thướt như chuột lột thì quan phụ mẫu nghi, “chễm chệ ngồi” trong đình đèn thắp sáng choang.
Quan dựa gối xếp, có lính gãi chân, có lính quạt hầu, có tên chực hầu điếu đóm.
Trong lúc trăm họ “gội gió tắm mưa, như đàn sâu lũ kiến”, ở trên đê, trong đình, quan ngồi trên, nha ngồi dưới, nghi vệ tôn nghiêm, như thần như thánh..
Ăn chơi bài bạc, thản nhiên ung dung: Đê sắp vỡ! “Mặc! Dân, chẳng dân thì chớ” Quan lớn ngài ăn, ngài đám người hầu, kẻ dạ, kẻ vâng!.
Quan lớn ù thông, xơi yến, vuốt râu, rung đùi, mắt mải trông đĩa nọc: “Sống chết mặc bay”.
Có người khẽ nói: “dễ có khi đê vỡ”, quan gắt: “mặc kệ”, có người nhà quê hốt hoảng chạy vào đình báo “đê vỡ mất rồi! “quan phụ mẫu” quát: “Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày..!”.
Quan sai bọn lính đuổi người nhà quê ra khỏi đình, rồi vẫn thản nhiên đánh bài. Quan vỗ tay xuống sập kêu to, tay xòe bài, miệng cười: “Ù! Thông tôm chi nẩy!… Điếu, mày!”
Quan sung sướng ù ván bài to khi đê đã vỡ. Cả một miền quê nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết: kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn… lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh thảm sầu kể sao cho xiết!.
Nghệ thuật tương phản đã vạch trần và lên án thói vô trách nhiệm, nhẫn tâm vô nhân đạo của bọn quan lại, coi thường tính mạng và đời sống nhân dân. Chúng chỉ lo chơi bời bài bạc, ăn chơi hưởng lạc, còn nhân dân thì “sống chết mặc bay”.
Một lối viết ngắn, sắc sảo. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong thể tương phản rất đặc sắc. Câu chuyện đầy kịch tính, thương tâm, giàu giá trị tố cáo hiện thực và tinh thần nhân đạo.
Xây dựng thành công nhân vật “quan phụ mẫu”, mệnh danh là “cha mẹ dân” mà coi tính mạng của dân như rơm rác, “sống chết mặc bay”. Tên “quan phụ mẫu” khá điển hình cho sự thối nát của chế độ quan trường thời Pháp thuộc.
Đâu chỉ tên “quan phụ mẫu” thối nát!. Hắn là một trong hàng ngàn hàng vạn bọn quan lại ngày xưa; hắn là sản phẩm, là công cụ đắc lực của chế độ thực dân nửa phong kiến thối nát.
Phát biểu cảm nghĩ về truyện "Sống chết mặc bay" – Bài số 4
Phạm Duy Tốn là một trong những nhà văn đầu tiên sáng tác văn học theo chủ nghĩa hiện thực. Ông tập trung vào những tác phẩm văn học mang tính chất hiện thực và viết về những con người trong thời kì này. Nổi bật trong số những tác phẩm của ông chính là tác phẩm “ Sống chết mặc bay”. Qua tác phẩm, chúng ta thấy được xã hội thối nát của thời kì lúc bấy giờ cùng những khó khăn của những người nông dân luôn phải đối mặt với bão lũ nhưng lại không nhân được sự chăm lo của quan phụ mẫu- những người đáng lẽ phải chăm lo cho cuộc sống của người dân nhiều nhất.
Câu chuyện bắt đầu với hình ảnh của những người nông dân đang cùng nhau chống lũ trên con sông Nhị Hà. Nước sông cuồn cuộn dâng ngày một cao. Thậm chí, dù lúc đó đang là nửa đêm nhưng mọi người vẫn cố gắng thay phiên nhau canh cho nước không bị vỡ. Khí thể lúc đó được mọi người miêu tả là vô cùng khí thể. Đủ mọi dụng cụ được mọi người mang hết ra để cùng nhau chống lũ: nào cuốc, nào thuổng, gậy gộc,… Thế nhưng, dù cho tất cả mọi người đang cố gắng thì sức người có hạn, những thứ mà mọi người sử dụng chỉ là những phương tiện thô sơ mà thôi. Thế cho nên, dù đã rất cố gắng, nhưng nước sông Nhị Hà vẫn đang dâng lên không ngừng, đe dọa tới cuộc sống của nhân dân quanh vùng nếu như đê bị vỡ. Mọi người ai nấy đều đang trông chờ vào sự giúp đỡ của quan. Nếu như có quan ở đây thì mọi thứ có lẽ sẽ khác. Thế nhưng, tất cả những mong chờ của người dân đều là vô vọng.
Ngay lúc này, trái ngược với khí thế khẩn trương và căng thẳng của người dân ở trên đê. Lúc này, quan đang ở trong đình ngồi chơi tổ tôm. Những ván bài đen đỏ đang lôi kéo sự chú ý của quan. Bên cạnh quan là biết bao nhiêu người hầu quan chơi đánh bài: nào thầy đề, thầy thông, phán quan,… Mọi người đều hầu quan chơi. Tác giả đã sử dụng biện pháp miêu tả trái ngược giữa cuộc sống của quan và của những người dân thấp hèn lúc bấy giờ. Khi những người dân đang cố gắng chống lại lũ lụt thì quan đang hưởng thụ sự sung sướng ở trong đình đầy sơn son thếp vàng. Khi những người dân đang khẩn trương, lo sợ nước sông Nhị Hà bị võ thì quan đang sung sướng vì đã ù được mấy ván bài liên tiếp.
Hình ảnh của viên quan hiện lên làm cho tất cả chúng ta cùng cảm thấy phẫn nộ. Đáng lẽ, quan phải là cha, là mẹ của những người nông dân chân yếu tay mềm thì quan lại không hề để ý tới cuộc sống của con dân mình. Hắn là một kẻ vô tâm, ích kỉ, chỉ biết nghĩ tới bản thân mình. Trong những lúc nước sôi lửa bỏng như vậy mà hắn lại không hề nghĩ tới những con người ngoài kia, hắn đang chờ cho ván bài tới của hắn. Khi có người báo đê sắp vỡ, hắn cũng bỏ ngoài tai tất cả, không hề quan tâm chút nào, chỉ mải giục những người đang chơi cùng ra ván bài nhanh lên. Ngay cả những kẻ vốn cũng là những người có học như thầy đồ, thầy phán cũng không hề can gián quan mà chỉ hùa nhau nịnh bợ quan, giúp cho quan vui vẻ. Thế mới thấy đắng cay làm sao cho số phận của những người dân.
Tới lần thứ hai, tên nô tài bẩm báo, quan vẫn không hề lay chuyển, thậm chí còn mắng tên nô tài. Đoạn trích này, tác giả Phạm Duy Tốn đã thể hiện một cách tinh tế biện pháp tăng tiến giữa tình trạng cấp bách của những người nông dân và mức độ bài đỏ của quan. Nước sông Nhị Hà càng dâng cao, cuộc sống của người dân càng khó khăn thì những ván bài của quan lại càng trở nên đỏ hơn bao giờ hết. Và để rồi cuối cùng, khi đê không thể chịu được nữa, bị vỡ hoàn toàn khiến cho nước sông tràn vào phía trong làm cho tất cả hoa màu, thú nuôi của người dân bị cuốn đi hết, tiếng than khóc vang lên khắp nơi thì cũng là khi quan ù những ván bài to nhất. Tên nô tài run rẩy báo cho quan thì bị quan nạt nộ:” ông bỏ tù chúng mày”. Mọi thứ bị đẩy lên dần dần và rồi cuối cùng, tức nước vỡ bờ, không còn gì có thể giữ lại được nữa.
Tóm lại, tác phẩm đã phản ánh hiện thực lúc bấy giờ với những điều mà văn học thời kì đó chưa phản ánh hết được. Đó chính là một xã hội thối nát, mục ruỗng, quan không chăm lo cho cuộc sống của nhân dân khiến cho nhân dân phải rơi vào cảnh lầm than mà không biết nương tựa vào đâu. Qua đây tác gải cũng nhẹ nhàng phê phán xã hội, cách cai trị của những người bậc trên đối với quan lại.
Vũ Hường tổng hợp