Phân tích truyện Tam đại con gà
Phân tích truyện Tam đại con gà Văn mẫu lớp 10 Ngữ văn lớp 10: VnDoc mời các bạn học sinh và thầy cô tham khảo tài liệu: , với nội dung đã được VnDoc cập nhật một cách chi tiết sẽ là nguồn thông tin ...
Phân tích truyện Tam đại con gà
Ngữ văn lớp 10:
VnDoc mời các bạn học sinh và thầy cô tham khảo tài liệu: , với nội dung đã được VnDoc cập nhật một cách chi tiết sẽ là nguồn thông tin hữu ích để giúp các bạn học sinh có kết quả cao hơn trong học tập. Mời thầy cô và các bạn học sinh tham khảo.
Để học tốt Ngữ văn lớp 10:
Dàn ý
A. Mở bài
Trong chế độ phong kiến sự công bằng lẽ phải trái không có nghĩa lý gì ở chốn công đường và trong cuộc sống không vươn lên để đẩy lùi cái dốt là đáng phê bình. Song càng đáng chê trách hơn là những kẻ giấu dốt và hay khoe khoang, liều lĩnh. Ta cùng tìm hiểu hai truyện cười để thấy rõ điều đó.
B. Thân bài
Phân loại truyện cười thành hai loại
+ Truyện khôi hài:
Nhằm mục đích giải trí, mua vui, ít nhiều có tính giáo dục.
+ Truyện trào phúng:
- Phê phán những kẻ thuộc giai cấp quan lại bóc lột.
- Phê phán thói hư tật xấu trong nội bộ nhân dân.
Tuyện Tam đại con gà thuộc thể loại truyện trào phúng
1. Nội dung truyện cười
a. Đối tượng gây cười trong truyện:
+ Là một anh học trò dốt nhưng lại sĩ diện hão
b. Mâu thuẫn gây cười:
Đối tượng gây cười vì dốt lại còn sĩ diện hão Ngoan cố giấu dốt đến phút cuối cùng
c. Bản chất và ý nghĩa của cái cười:
+ Truyện phê phán một bộ phận trong nội bộ nhân dân với tật xấu: đã dốt lại giấu dốt và tự cho mình giỏi, rút cuộc, cái dốt
vẫn lộ ra, hơn nữa anh ta lại mang cái dốt dạy trẻ làm ảnh hưởng đến tương lai của đất nước.
+ Truyện chỉ dừng lại ở mức độ phê phán, nên tiếng cười mang tính chất sảng khoái.
2. Nghệ thuật gây cười
- Mâu thuẫn tạo ra tiếng cười
-Thầy đồ dốt >< hay khoe khoang giấu dốt, sĩ diện hão
Cái cười bật ra nhiều lần. Mỗi lần ta đều nhận ra tính láu cá, vụng chèo khéo chống của anh học trò dám liều lĩnh làm thầy đồ dạy trẻ.
C. Kết bài
- Tiếng cười trong truyện mang ý nghĩa phê phán, giáo dục cao.
Văn mẫu lớp 10:
Bài làm 1
Từ xưa cha ông ta đã sáng tác ra những câu truyện cười truyện ngụ ngôn mang tính chất giải trí và đồng thời cũng để phê phán chê bai một số loại người trong xã hội. Đó thường là những câu truyện dân gian ngắn có kết cấu chặt chẽ kết thúc bất ngờ kể về những sự việc hành vi tự nhiên của con người. Trong số đó truyện cười Tam đại con gà là một câu truyện khá phổ biến hướng đến sự châm biếm đả kích vào những kẻ "xấu hay làm tốt dốt hay nói chữ". Cái xấu cái dốt càng che đậy càng dễ lộ ra kệch cỡm và đáng cười hơn rất nhiều lần.
Truyện Tam đại con gà châm biếm một anh học trò loại người "dài lưng tốn vải ăn no lại nằm". Anh ta học hành dốt nát nhưng lại có tính khoe khoang đi đâu cũng ra vẻ cũng lên mặt "văn hay chữ tốt". Nhưng vì không biết được bộ mặt thật của anh ta mà có nhiều người tưởng anh ta là hay chữ là học rộng tài cao mới mời anh ta về làm thầy dạy dỗ bọn trẻ. Và từ đó những câu chuyện bi hài liên tiếp xảy ra thể hiện tài năng kém cỏi của "ông thầy "nhưng lại luôn ra oai phản ánh một lớp người trong xã hội thời bấy giờ.
Mấu chốt của câu chuyện chính là ông thầy được mời về gõ đầu trẻ. Bi kịch đã bắt đầu từ đó và khiến ông thầy không thể xoay xở được. Bắt đầu là việc nhận biết mặt chữ. Thầy đồ đi dậy học trò nhưng "thấy mặt chữ nhiều nét rắc rối quá học trò lại hỏi gấp, thầy cuống nói liều". Thầy gặp chữ "kê" mà cũng không biết là chữ gì nên nói bừa "dủ dỉ là con dù dì". Chữ kê là con gà mà thầy lại trả lời học trò là con dù dì. Vốn trên thế giới các loài động vật không hề có con nào như thế cả. Ta thấy thầy đồ ở đây dốt tận cùng của cái dốt không những không hiểu biết gì về kiến thức căn bản trong sách vở mà thầy còn dốt ở cả những kiến thức đơn giản căn bản trong xã hội. Dốt nát là thế mà cũng có thể làm liều nhận lời dậy học. Ta thấy được anh học trò này hiện lên ngay từ những câu đầu tiên là một anh chàng dốt nát đến cực độ nhưng cái dốt trong anh luôn được giấu kín và khi đi dậy trẻ cái dốt ấy lại được thể hiện rõ nét.
Cái dốt của thầy càng được nâng cao khi mà thầy sợ mình dậy sai nên bảo trò đọc khẽ thôi không người khác nghe thấy lại chê bai nói thầy đi dậy mà không biết chữ. Đến dậy tiếng cười càng giòn giã hơn khi ta biết được cái giấu dốt của thầy rất đáng cười cười vì cái giấu dốt rất láu cá. Đây là sự giấu dốt mà ta đáng chê trách đáng phê bình. Nhân vật Thổ Công xuất hiện khiến cho ý nghĩa phê phán và nghệ thuật trào phúng của truyện càng sinh động, sâu sắc. Như một mũi tên bắn trúng hai đích, truyện "khoèo" cả Thổ Công vào với thầy mà chế giễu. Té ra thần thánh tưởng là thiêng liêng mà cũng dốt. Cái dốt ấy thể hiện ở chi tiết thầy đồ xin ba đài âm dương, Thổ Công cho được cả ba. Như vậy là Thổ Công đồng ý với thầy đồ chữ ấy đúng là dù dì. Thế là thầy đồ vững bụng, không sợ nữa mà đắc chí lắm… bệ vệ ngồi trên giường, bảo trẻ đọc to. Trò vâng lời thầy, gân cổ lên gào: Dủ dỉ là con dù dì! Dủ dỉ là con dù dì… Với chi tiết ấy, cái dốt của thầy đã được khuếch đại lên gấp nhiều lần.
Cái dốt cuối cùng cũng là phần kết thúc của câu chuyện khi mà thầy tin vào thổ công tin vào thần thánh nên tin tưởng chữ đó đúng là "dủ dỉ". Vậy nên thầy đã bảo học trò đọc to, thế là đứa nào đứa đấy gào cổ lên mà đọc. Chủ nhà thấy thầy dậy cái gì mà lạ quá cho nên mới đến xem sự tình.Thế là thầy đồ đã bị lật tẩy là dốt nát không biết chữ gì cả. Lúc này thấy mới nhận sự dốt nát của mình và tiếng cười giòn giã hơn khi mà thầy thầm trách thổ công "mình đã dốt nó còn dốt hơn. Nhưng bản tính lại vốn dựng chèo khéo trống thế nên trước mặt nhà chủ cái sai rành rành cái dốt lộ thiên mà anh học trò vẫn còn cố cãi giải oan cho mình bằng cách giải nghĩa thật luẩn quẩn và buồn cười. Cách chống chế của thầy nhằm mục đích giấu dốt và thầy vẫn ra vẻ ta đây hay chữ, trái ngược với sự tự nhận thức về mình lúc trước. Chính sự trái ngược này đã tạo ra tiếng cười trào phúng hả hê. Ta thấy ở đây anh học trò không biết chữ này thì phải hỏi người biết hoặc tìm trong sách vở. Vậy mà thầy lại đi hỏi thổ công đó là cách hỏi ngược đời trái tự nhiên và xưa nay chưa từng có. Chi tiết thầy xin ba đài âm dương để hỏi về chữ dủ dỉ dù dì là một sáng tạo của tác giả dân gian. Với nghệ thuật sáng tạo này tác giả dân gian đã đẩy câu chuyện lên một bước phát triển cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Như vậy ta thấy rằng ở đây tác giả dân gian cũng không nới thẳng ra vấn đề mà để nhân vật tự bộc lộ dần đó là cái dốt cái sĩ cái kênh kiệu đáng chê bai phê phán.
Ta thấy cái dốt của người học trò thì không đáng cười mà đáng cười ở đây là đã dốt lại còn ra vẻ sĩ diện hão huyền cái giấu dốt mới là cái dáng cười. Như vậy, mâu thuẫn trái tự nhiên ở đây là mẫu thuẫn giữa cái dốt và sự giấu dốt. Thầy càng ra sức che đậy thì bản chất dốt nát càng phơi bày và thầy tự biến mình thành trò cười cho thiên hạ.
Trong toàn bộ câu chuyện, cái dốt của thầy đồ bị lộ dần ra khi lâm vào các tình huống khó xử nhưng thầy đã cố che giấu một cách phi lí. Vì thế, thầy càng che giấu thì bản chất dốt nát càng bị phơi bày. Cuối cùng, thầy đành tìm một lối thoát phi lí hơn. Nhưng thầy càng "lấp liếm" thì càng trở nên thảm hại vì ai cũng biết rằng đó chỉ là "lí sự cùn" chứ không phải là một cách chống chế thông minh có thể chấp nhận được. Ở đây, ta thấy có sự tăng tiến về mức độ phi lí trong hành động và lời nói của thầy đồ. Đó cũng là một thủ pháp nghệ thuật được sử dụng phổ biến trong truyện cười dân gian.
Tam đại con gà phê phán thói giấu dốt một tật xấu có thật và khá phổ biến trong nội bộ nhân dân. Ý nghĩa phê phán của truyện toát lên từ hành động tức cười của một anh thầy đồ "dốt đặc cán mai" mà lại cố tình giấu dốt, nhưng càng cố tình che giấu thì sự dốt nát lại càng lộ ra. Anh học trò dốt nát đến thế mà lại cả gan đi làm thầy dạy trẻ thì tác hại quả là khôn lường. Tác phẩm đã mở thêm đối tượng bị chê bai phê phán đó là cả ông thổ công cũng dốt. Và thầy đồ không những dốt về chữ mà còn dốt về phương pháp học hỏi. Việc đưa nhân vật thổ công vào trong truyện là chi tiết hư cấu không thật nhưng sự xuất hiện của nhân vệt thổ công khiến cho tác phẩm phát triển nhanh hơn mạnh hơn và độc đáo hơn.
Qua truyện Tam đại con gà nhân dân muốn phê phán chê bai một tật xấu trong nội bộ nhân dân phê phán những người không chịu học hỏi mà lúc nào cũng tự cho ta đây là tài giỏi mặc dù không biết gì. Câu chuyện phê phán cao những kẻ giấu dốt không dũng cảm đối diện với cái dốt để mình tốt hơn.
Bài làm 2
Nhân vật chính trong truyện Tam đại con gà là anh học trò dốt đặc mà lại dám làm thầy đồ. Các nhân vật khác chỉ làm nền cho nhân vật chính hoạt động. Điểm độc đáo của truyện là tác giả dân gian tạo ra tình huống đặc biệt để nhân vật thầy đồ tự bộc lộ "trình độ" của mình.
Thông thường, cái dốt do thất học được mọi người dễ dàng thông cảm; còn cái dốt của học trò thì chỉ đáng chê trách, chứ không đáng cười. Người xưa nói: "Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe", nhưng anh học trò dốt lại đi đâu cũng lên mặt văn hay chữ tốt cả gan hơn, anh ta dám làm nghề "gõ đầu trẻ", mà nghề này muốn dạy một thì phải biết mười. Thói xấu ấy của anh ta không dừng ở lời nói, mà đã thành hành động.
Truyện Tam đại con gà không hướng tiếng cười vào hành động "ngược đời" và liều lĩnh ấy, mặc dù nó là nguyên nhân gây ra tiếng cười. Cái bị phanh phui, phê phán chính là thói "xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ".
Các tình huống khó xử khác nhau trong truyện dẫn dắt người đọc đi từ bất ngờ hày tới bất ngờ khác và tiếng cười vang lên khi tình huống cuối cùng khép lại.
Tình huống thứ nhất nói về trình độ của thầy đồ. Giờ dạy học, thầy gặp chữ kê là gà nhưng thầy không nhận ra vì nó có nhiều nét rắc rối, gần giống với chữ tước là chim sẻ. Học trò lại hỏi gấp, thầy cuống lên đành nói liều: Dủ dỉ là con dù dì.
Các tác giả dân gian cố tình để thầy bẽ mặt với chữ kê. Tuy có nhiều nét nhưng chữ này không khó. Sách Tam tự kinh dùng cho trẻ học vỡ lòng chữ Hán, phần giải nghĩa rõ ràng, lại có vần vè rất dễ thuộc, vậy mà thầy mù tịt.
Học trò hồn nhiên hỏi gấp, vố tình dồn thầy vào chỗ bí. Thầy sẽ chẳng còn giữ được cái oai của mình nếu không trả lời được. Đọc chữ kê thành dủ dỉ, rồi giảng bậy dủ dỉ là con dù dì quả là thầy đã đi đến chỗ tận cùng liều lĩnh và tận cùng của sự dốt nát thảm hại. Dủ dỉ đâu phải chữ Hán? Và trên đời làm gì có con vật nào tên là dủ dỉ, dù dì? Như vậy là thầy vừa dốt kiến thức sách vở, lại vừa dốt kiến thức thực tế. Người đọc đọc đến đây phải bật cười ngạc nhiên trước "trình độ" của ông thầy kì quặc này.
Tình huống thứ hai là thầy cũng khôn, sợ nhớ sai, người nào biết thì xấu hổ, mới bảo học trò đọc khẽ. Thầy liều lĩnh khi dạy trẻ nhưng lại thận trọng trong việc giấu dốt, dùng cái láu cá vặt để gỡ và giấu nhẹm cái dốt của mình.
Tạm thời, sự láu cá ấy cứu được thầy nhưng thực ra nó càng đẩy nhanh thầy vào ngõ cụt.
Tình huống thứ ba là thầy khấn hỏi Thổ Công của gia chủ để xem chữ ấy có phải thật là "dù dì" không.
Lẽ ra, không biết thì thầy phải tìm sách mà học, tìm người mà hỏi. Nhưng truyện không có cái lẽ ra ấy. Tình huống này làm cho mâu thuẫn phát triển lên tới điểm đỉnh.
Nhân vật Thổ Công xuất hiện khiến cho ý nghĩa phê phán và nghệ thuật trào phúng của truyện càng sinh động, sâu sắc. Như một mũi tên bắn trúng hai đích, truyện "khoèo" cả Thổ Công vào với thầy mà chế giễu. Té ra thần thánh tưởng là thiêng liêng mà cũng dốt. Cái dốt ấy thể hiện ở chi tiết thầy đổ xin ba đài âm dương, Thổ Công cho được cả ba. Như vậy là Thổ Công đồng ý với thầy đồ chữ ấy đúng là dù dì. Thế là thầy đồ vững bụng, không sợ nữa mà đắc chí lắm… bệ vệ ngồi trên giường, bảo trẻ đọc to. Trò vâng lời thầy, gân cổ lên gào: Dủ dỉ là con dù dì! Dủ dỉ là con dù dì… Với chi tiết ấy, cái dốt của thầy đã được khuếch đại lên gấp nhiều lần.
Tình huống thứ tư nằm ở phần kết thúc truyện. Khi thầy đồ bộc lộ đến tận cùng sự ngoan cố của thói giấu dốt thì cũng là lúc tiếng cười bật lên.
Sự tin tưởng mù quáng vào thần thánh đã đưa thầy đến cuộc chạm trán bất ngờ với chủ nhà. Cái dốt nát của thầy đã bị lật tẩy. Lúc này, thầy đã tự nhận thức được sự dốt nát của mình và thầm trách Thổ Công: Mình đã dốt, Thổ Công nhà nó cũng dốt nữa.
Vốn "vụng chèo khéo chống", thầy vẫn cố gượng gạo giấu dốt bằng cách giải nghĩa quanh quẩn rất buồn cười. Không ngờ chữ dủ dỉ vô nghĩa mà lại được thầy tìm ra lắm nghĩa đến thế (!). Cách chống chế của thầy nhằm mục đích giấu dốt và thầy vẫn ra vẻ ta đây hay chữ, trái ngược với sự tự nhận thức về mình lúc trước. Chính sự trái ngược này đã tạo ra tiếng CƯỜI trào phúng hả hê. Truyện khai thác cả vần điệu, cả yếu tố thứ bậc trong tam đại con gà mà chế giễu, chọc cười: Dủ dỉ là con dù dì, dù dì là chị con công, con công là ông con gà. Yếu tố bất ngờ nhất của truyện khép lại thì cũng là lúc tiếng cười phê phán vang lên không dứt.
Câu chuyện ngắn gọn chỉ xoay quanh một chữ kê nhưng đã vẽ ra được chân dung thảm hại của nhân vật thầy đồ có tính cách hẳn hoi. Đó là một con người "dốt lòi" nhưng lại hay "lên mặt vốn hay chữ tốt" và luôn cố tìm cách giấu dốt bằng thói ba hoa.
Đặc điểm của truyện này là mâu thuẫn trái tự nhiên trong nhân vật chính được nói ra ngay từ đầu câu chuyện. Bản chất "dốt nát" của thầy đồ đã được khẳng định. Toàn bộ câu chuyện chứng minh cho định đề này.
Tuy nhiên, khi thể hiện bản chất của nhân vật thầy đồ, vấn đề có khác đi một chút. Thầy đồ dốt đến mức những chữ tối thiểu trong sách dùng để dạy cho trẻ con mà cũng không phân biệt nổi. Dốt nhưng lại tự cho là mình giỏi (sau khi khấn Thổ Công). Khi bị người khác chỉ ra cái dốt thì ngầm tự nhận là mình dốt nhưng vẫn tìm cách chống chế bằng được.
Như vậy, mâu thuẫn trái tự nhiên ở đây là mẫu thuẫn giữa cái dốt và sự giấu dốt. Thầy càng ra sức che đậy thì bản chất dốt nát càng phơi bày và thầy tự biến mình thành trò cười cho thiên hạ.
Trong toàn bộ câu chuyện, cái dốt của thầy đồ bị lộ dần ra khi lâm vào các tình huống khó xử nhưng thầy đã cố che giấu một cách phi lí. Vì thế, thầy càng che giấu thì bản chất dốt nát càng bị phơi bày. Cuối cùng, thầy đành tìm một lối thoát phi lí hơn. Nhưng thầy càng "lấp liếm" thì càng trở nên thảm hại vì ai cũng biết rằng đó chi là "lí sự cùn" chứ không phải là một cách chống chế thông minh có thể chấp nhận được. Ở đây, ta thấy có sự tăng tiến về mức độ phi lí trong hành động và lời nói của thầy đồ. Đó cũng là một thủ pháp nghệ thuật được sử dụng phổ biến trong truyện cười dân gian.
Tam đại con gà phê phán thói giấu dốt một tật xấu có thật và khá phổ biến trong nội bộ nhân dân. Ý nghĩa phê phán của truyện toát lên từ hành động tức cười của một anh thầy đồ "dốt đặc cán mai" mà lại cố tình giấu dốt, nhưng càng cố tình che giấu thi sự dốt nát lại càng lộ ra. Anh học trò dốt nát đến thế mà lại cả gan đi làm thầy dạy trẻ thì tác hại quả là khôn lường.
Truyện cười này cùng nhiều truyện cười khác đã lật tẩy thực chất của không ít hạng "thầy đồ dốt" trong xã hội phong kiến ngày xưa. Và tất nhiên, truyện không chỉ mua vui và phê phán thói giấu dốt của các thầy đồ mà nó còn nhắc nhở, cảnh tỉnh những ai không nhiều thì ít cũng mẳc phải căn bệnh ấy.
Hai truyện phân tích ở trên là những truyện hài hước trào phúng khá tiêu biểu cho truyện cười dân gian Việt Nam. Cả hai truyện đều chứa đựng những bài học nhân sinh thâm thúy và bổ ích thông qua nghệ thuật gây cười bằng cử chỉ, lời nói, tình huống đáng cười và yếu tố bất ngờ được sử dụng rất đắc địa. Nội dung hai truyện cười này là biểu hiện sinh động của trí thông minh, tính lạc quan và tinh thần đấu tranh của nhân dân lao động đối với những thói xấu trong xã hội để cuộc sống mỗi ngày tốt đẹp hơn.
Bài làm 3
Bản chất nhân vật thầy đồ được khẳng định ngay từ đầu là dốt nát. Dốt nát nhưng lại hay khoe giỏi, đó là mâu thuẫn trái tự nhiên ở nhân vật. Câu chuyện muốn minh chứng cho mâu thuẫn đó nhưng qua các tình huống, mâu thuẫn này lại biến đổi đi một chút trở thành: dốt nhưng luôn tìm cách giấu dốt. Đó cũng là nội dung đả kích được bộc lộ qua những tình huống cụ thể.
Khi gặp chữ "kê" - một chữ đơn giản trong sách dạy trẻ con học chữ Hán - thầy không biết. Không biết nhưng phải dạy cho học trò nên thầy đành nói bừa, nói liều. Nói bừa, nói liều nên thầy phải dặn học trò đọc khẽ, để không ai nghe thấy. Như vậy thầy đã tự bộc lộ cái dốt nát thảm hại ở nhiều phương diện (kiến thức và cách xử trí) và cũng bộc lộ cái láu cá vặt khi tìm cách giấu đi cái dốt của mình.
Sau đó để kiểm tra sai đúng, thầy xin âm dương và "đắc chí" vì thổ công cũng đồng tình với mình. Có cơ sở để tin tưởng và yên tâm thầy không còn "sợ nhỡ sai", "bảo học trò đọc khẽ" mà "bệ vệ ngồi trẽn giường bảo trẻ đọc cho to" và "lũ trẻ vâng lời thầy gân cổ lên đọc". Đây là biểu hiện của mâu thuẫn dốt nhưng lại thích khoe chữ. Và cũng chính vì thói thích khoe như vậy nên bao nhiêu cái dốt của thầy không chỉ được phô bày đầy đủ mà còn được khuếch đại, được nhân lên gấp bội. Đã dốt về chữ, cách chữa dốt của thầy cũng thật buồn cười, ngớ ngẩn, đặc biệt niềm tin và sự "đắc chí" của thầy lại càng khiến thầy bị đẩy lên đỉnh cao của sự ngu dốt.
Khi được chủ nhà nhắc, lúc đó thầy mới biết mình dốt thật. Thế nhưng vì sĩ diện thầy vẫn không nhận mình là dốt. Bằng cái láu cá vặt, thầy nhanh trí bảo vệ mình. Cách phản ứng tức thời của thầy để nói gỡ cho mình: "Dạy cho cháu biết đến tam đại con gà" vô hình chung đã tự phơi bầy không chỉ bản chất dốt nát mà quan trọng hơn còn cả thói giấu dốt, sĩ diện hão. Tiếng cười phê phán đến đây bật lên thật mạnh mẽ và sâu sắc.
Như vậy, qua các tình huống và cách giải quyết tình huống của nhân vật, người đọc có thể nhận ngay ra một điều: thầy đồ dốt và tìm cách giấu dốt, nhưng càng ra sức che đậy thì bản chất của thầy lại càng hiện ra một cách nhanh chóng.
Ý nghĩa phê phán
Bằng tiếng cười, truyện tập trung phê phán thói giấu dốt phổ biến ở nhiều đối tượng trong cuộc sống. Bản thân cái dốt và sự thiếu hiểu biết chưa phải là cái đáng cười, cái đáng phê phán, đả kích. Cái đáng cười, đáng phê phán mà nhân dân đề cập ở đây là khi người ta dốt mà biết mình dốt mà vẫn khoe là mình giỏi, lại dám nhận làm thầy dạy người khác, đặc biệt là cố tìm mọi cách để giấu đi cái dốt, che đậy cái dốt của mình. Cố giấu dốt để đề cao mình, bảo vệ mình, thực chất đưa đến một kết cục ngược lại. Tự mình hại chính mình, tự mình lật tẩy chính mình. Đó cũng là bài học mà Tam đại con gà muốn nhắc nhở tất cả mọi người.
-------------------------------------
Trên đây VnDoc.com đã giới thiệu tới bạn đọc tài liệu: . Để học tốt môn Ngữ văn lớp 10. Cùng chủ đề này, VnDoc.com mời bạn đọc tham khảo bài soạn văn mẫu bài Tam đại con gà và đọc bài Tam đại con gà mà VnDoc.com đã sưu tầm, tổng hợp.