28/05/2017, 15:05

Phân tích truyện ngắn Bến quê của Nguyễn Minh Châu

Phân tích truyện ngắn Bến quê của Nguyễn Minh Châu – Bài làm 1 Bến quê là truyện ngắn được lấy làm tên chung cho tập truyện của nhà văn quân đội Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989), xuất bản năm 1985. Ở tác phẩm này, ngòi bút của nhà văn hướng vào những sự việc tưởng chừng nhỏ nhặt, tầm thường, để ...

Phân tích truyện ngắn Bến quê của Nguyễn Minh Châu – Bài làm 1 Bến quê là truyện ngắn được lấy làm tên chung cho tập truyện của nhà văn quân đội Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989), xuất bản năm 1985. Ở tác phẩm này, ngòi bút của nhà văn hướng vào những sự việc tưởng chừng nhỏ nhặt, tầm thường, để thông qua đó phát hiện ra chiều sâu của đời sống tinh thần với bao nhiêu quy luật và nghịch lí, vượt ra khỏi tầm nhìn, tầm suy nghĩ hạn hẹp ...

– Bài làm 1

Bến quê là truyện ngắn được lấy làm tên chung cho tập truyện của nhà văn quân đội Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989), xuất bản năm 1985. Ở tác phẩm này, ngòi bút của nhà văn hướng vào những sự việc tưởng chừng nhỏ nhặt, tầm thường, để thông qua đó phát hiện ra chiều sâu của đời sống tinh thần với bao nhiêu quy luật và nghịch lí, vượt ra khỏi tầm nhìn, tầm suy nghĩ hạn hẹp trước đây của tác giả nói riêng và mọi người nói chung.

Truyện ngắn Bến quê của Nguyễn Minh Châu chứa đựng những suy ngẫm, trải nghiệm sâu sắc của nhà văn về con người và cuộc đời, thức tỉnh mọi người sự trân trọng vẻ đẹp và giá trị của những điều bình dị, gần gũi của gia đình, quê hương. Triết lí trong Bến quê sâu sắc, mang tính trải nghiệm, có ý nghĩa tổng kết của một con người sắp giá từ cuộc sống.

Cốt truyện được xây dựng trên một tình huống chứa đựng mâu thuẫn. Nhân vật chính là anh Nhĩ, người đã từng đi khắp nơi trên thế giới, nhưng cuối đời lại bị cột chặt vào giường bởi một căn bệnh hiểm nghèo. Nhưng cũng chính vào thời điểm ấy, Nhĩ đã phát hiện ra vùng đất bên kia sông, nơi bến quê quen thuộc một vẻ đẹp mộc mạc mà vô cùng quyến rũ. Cũng như mãi cho đến lúc nằm liệt giường, nhận sự săn sóc từng miếng ăn, ngụm nước của vợ con, Nhĩ mới cảm nhận được nỗi vất vả, sự tần tảo, tình yêu và đức hi sinh thầm lặng của người vợ hiền. Nhĩ khao khát được một lần đặt chân lên bờ bãi bên kia sông, cái miền đất gần gũi nhưng đã trở nên xa vời đối với anh. Anh đã suy ngẫm và chiêm nghiệm ra cái quy luật đầy nghịch lí của đời người: Con người ta trên đường đời thật khó tránh được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình.

Muôn nắm được nội dung tác phẩm, trước hết, chúng ta phải tìm hiểu sơ qua về tình huống của truyện.

Nhân vật Nhĩ rơi vào một hoàn cảnh đặc biệt là bị liệt toàn thân. Căn bệnh hiểm nghèo ấy khiến anh hầu như không thể tự di chuyển, dù chỉ là nhúc nhích đôi chút trên giường. Mọi sinh hoạt của anh đều phải nhờ vào sự giúp đỡ của người khác, mà chủ yếu là chị Liên, vợ anh. Trong nhiều tác phẩm, các nhà văn hay đặt nhân vật vào hoàn cảnh giáp ranh giữa sự sống và cái chết và khai thác tình huống ấy để nói về khát vọng sống và sức sống mạnh mẽ của con người, về lòng nhân ái, sự hi sinh cao thượng… Nhưng ở truyện này, nhà văn Nguyễn Minh Châu không khai thác theo hướng đó mà lại chiêm nghiệm, suy ngẫm để rút ra triết lí về đời người.

Kịch tính của truyện nằm ở cái điều trớ trêu là suốt mấy chục năm công tác, Nhĩ đã có điều kiện đặt chân đến hầu như khắp mọi nơi trên thế giới. Ấy thế mà những năm cuối đời, căn bệnh bại liệt quái ác lại buộc chặt anh vào giường và hành hạ anh suốt mấy năm trời.

Vào một buổi sáng, Nhĩ muốn nhích người đến gần bên cửa sổ. Anh phải nhờ đám trẻ hàng xóm giúp đỡ. Tình huống nghịch lí ấy lại dẫn đến một tình huống thứ hai trong truyện cũng không kém phần nghịch lí: Nhĩ phát hiện ra vẻ đẹp lạ lùng của bãi bồi bên kia sông ngay phía trước cửa sổ nhưng anh biết rằng mình sẽ không bao giờ có thể được đặt chân lên mảnh đất ấy, dù nó ở rất gần. Nhĩ đã nhờ cậu con trai thực hiện giúp mình điều khao khát đó, nhưng rồi cậu ta lại sa vào một đám chơi phá cờ thế trên hè phố và có thể sẽ để lỡ mất chuyến đò ngang duy nhất trong ngày.

Tạo ra một chuỗi những tình huống nghịch lí như trên, tác giả muốn người đọc lưu ý đến một vấn đề của cuộc đời: cuộc sống và số phận con người chứa đầy những điều bất thường, ngẫu nhiên, vượt ra ngoài dự định, ước muốn và cả những tính toán cố sẵn. Nhưng ý nghĩa của tình huống trong truyện Bến què không dừng ở dó mà nó còn mồ ra một nội dung triêt lí mang tính tổng kết những trải nghiệm của cả đời người, qua suy ngẫm của nhân vật Nhĩ: Con người ta trên đường đời thật khó tránh được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình… Cũng như sự giàu có lẫn vẻ đẹp gần gũi của bãi bồi bên kia sông hay phẩm chất của người vợ tần tảo, giàu tình yêu và đức hi sinh thì phải đến lúc này, khi sắp giã biệt cuộc đời, Nhĩ mới thấu hiểu và cảm nhận thấm thía.

Vẻ đẹp của thiên nhiên trong một buổi sáng đầu thu được miêu tả qua cái nhìn và cảm xúc tinh tế của nhân vật Nhĩ. Cảnh vật được miêu tả theo tầm nhìn của Nhĩ từ gần đến xa, tạo thành một không gian có chiều sâu, chiều rộng. Đầu tiên, anh nhìn thấy những bông bằng lăng tím ngay phía ngoài cửa sổ, rồi đến con sông Hồng với màu nước đỏ nhạt và sau cùng là bãi bồi bên kia sông.

Cảnh vật thiên nhiên hiện ra với vẻ đẹp vô cùng quyến rũ : Bên kia những cây bằng lăng, tiết trời đầu thu đem đến cho con sông Hồng một màu đỏ nhạt, mặt sông như rộng thêm ra. Vòm trời cũng như cao hơn. Những tia nắng sớm đang từ từ di chuyển từ mặt nước lên những khoảng bờ bãi bên kia sông, và cả một vùng phù sa lâu đời của bãi bồi ở bèn kia sông Hồng lúc này đang phô ra trước khuôn cửa sổ của gian gác nhà Nhĩ một thứ màu vàng thau xen với màu xanh non – những màu sắc thân thuộc quá như da thịt, hơi thở của đất màu mỡ…

Không gian và những cảnh sắc ấy vốn quen thuộc, gần gũi, nhưng hầu như rất mới mẻ đối với Nhĩ. Tưởng chừng như lần đầu tiên trong đời, anh cảm nhận được vẻ đẹp phong phú của nó. Từ hoàn cảnh cụ thể của mình, Nhĩ đã quan sát, suy ngẫm để rút ra quy luật giống như một nghịch lí của đời người.

Nhĩ bị bệnh đã lâu ngày. Mọi sự, anh đều phải trông cậy vào vợ con. Trong buổi sáng hôm đó, Nhĩ đã linh cảm rằng thời gian của đời mình không còn bao lâu nữa: Nhĩ khó nhọc nâng một cánh tay lên khẽ ẩy cái bát miến trên tay Liên ra. Anh ngửa mặt như một đứa trẻ để cho thằng Tuấn cầm chiếc khăn bồng tẩm nước ấm khẽ lau miệng, cằm và hai bên má cho mình. Rồi anh hỏi vợ : Đêm qua lúc gần sáng em cô nghe thấy tiếng gì không?…

Hôm nay đã là ngày mấy rồi em nhỉ? Chị Liên dường như cũng đã cảm nhận được tình cảnh và tâm trạng của chồng nên lảng tránh trả lời những câu hỏi của anh.

Anh Nhĩ nghĩ về chị Liên thật cảm động. Lần đầu tiên, anh để ý thấy vợ mình mặc tấm áo vá. Những ngón tay gầy guộc của chị âu yếm vuốt ve vai anh và Nhĩ nhận ra tất cả tình yêu thương, sự tần tảo và đức hi sinh thầm lặng của vợ. Nhĩ nói với vợ: Suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm… mà em vân nín thinh. Chị Liên trả lời: Có hề gì đâu… Miễn là anh sống, luôn luôn có mặt anh, tiếng nói của anh trong gian nhà này. Chính trong những ngày cuối đời, Nhĩ mới thực sự thấu hiểu và biết ơn sâu sắc người vợ hiền thục, đảm đang:…, cũng như cảnh bãi bồi đang nằm phơi mình bên kia, tâm hồn Liến vẫn giữ nguyền vẹn những nét tần tảo và chịu đựng hi sinh từ bao đời xưa, và cũng chính nhờ có điều đó mà sau nhiều ngày tháng bôn tẩu, tìm kiếm… Nhĩ đã tìm thấy được nơi nương tựa là gia đình trong những ngày này.

Vào buổi sáng hôm ấy, khi nhận ra vẻ đẹp bình dị, gần gũi của cảnh vật qua ô cửa sổ, đồng thời cũng hiểu rằng mình sắp phải giã biệt cõi đời, trong tâm thức Nhĩ bừng dậy một khát khao vô vọng là được đặt chân một lần lên cái bãi bồi bên kia sông. Điều ước muốn ấy chính là sự thức tỉnh về những giá trị bền vững của những điều bình thường và sâu sắc của cuộc sống thường bị người ta bỏ qua hoặc lãng quên, nhất là thời còn trẻ, khi những ham muốn xa vời, hão huyền đang lôi cuốn con người tìm đến. Sự thức tỉnh này chỉ đến với người ta ở cái tuổi đã từng trải, với Nhĩ thì đó là thời gian cuối đời, lại phải nằm liệt trên giường bệnh. Bởi thế sự thức tỉnh của anh xen lẫn niềm ân hận, xót xa: Họa chăng chỉ có anh đã từng trải, đã từng in gót chân khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một cái bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia.

Nhĩ đã nhờ con trai thay mình đi sang bên kia sông, đặt chân lên bãi phù sa màu mỡ ấy. Nhưng anh lại gặp thêm một nghịch lí nữa là đứa con không hiểu được ước muốn tha thiết của cha nên làm theo một cách miễn cưỡng và rồi lại bị cuốn hút vào trò chơi phá cờ thể rất hấp dẫn mà nó gặp trên đường đi, để rồi cố thể sẽ lỡ chuyến đò ngang duy nhất trong ngày. Anh Nhĩ không trách con, bởi vì nó đã thấy có gì đáng hấp dẫn ở bên kia sông đâu. Nó cũng giông hệt như anh mấy mươi năm về trước.

Cuối truyện, tác giả tả khi thấy con đò ngang vừa chạm mũi vào bờ đất bên này, Nhĩ đã thu hết tàn lực dồn vào một cử chỉ có vẻ kì quặc: Anh đang cố thu nhặt hết mọi chút sức lực cuối cùng còn sót lại để đu mình nhô người ra ngoài, giơ một cánh tay gầy guộc ra phía ngoài cửa sổ khoát khoát như đang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào đó. Hành động này của Nhĩ có thể hiểu là anh đang nôn nóng thúc giục cậu con trai hãy mau mau xuống bến kẻo lỡ đò, nhưng hình ảnh này còn có ý nghĩa sâu xa hơn. Đó là ý muôn thức tỉnh mọi người về những cái vòng vèo, chùng chình mà chúng ta đang sa vào trên đường đời, hãy cố gắng dứt ra khỏi nó để hướng tới những giá trị đích thực, bền vững vốn rất giản dị, gần gũi của cuộc đời xung quanh ta.

Nhân vật Nhĩ là nhân vật tư tưởng, một loại nhân vật xuất hiện khá nhiều trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu giai đoạn sau 1975. Nhà văn đã gửi gắm qua nhân vật này nhiều điều mà ông quan sát, suy ngẫm, triết lí về cuộc đời và con người. Nhưng nhân vật không bị biến thành cái loa phát ngôn cho tác giả. Những chiêm nghiệm, triết lí của ông đã được chuyển hóa nhuần nhuyễn vào đời sống nội tâm của nhân vật, với diễn biến tâm trạng tinh tế dưới sự tác động của hoàn cảnh bất thường.

Đặc điểm nổi bật trong nghệ thuật của truyện là nhà văn đã sáng tạo ra những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng. Vậy hình ảnh biểu tượng là gì?

Trong truyện Bến quê, hầu như mọi hình ảnh đều mang hai lớp nghĩa: nghĩa thực và nghĩa biểu tượng. Hai lớp nghĩa này gắn bó thống nhất, khiến cho các hình ảnh không bị tước đi giá trị tạo hình và sức gợi cảm để chỉ đơn thuần là hình ảnh ước lệ. Ý nghĩa biểu tượng được gợi ra từ hình ảnh thực, nhưng phải đặt nó vào trong cả hệ thống hình ảnh và nó chỉ có thể toát lên ý nghĩa khi đối chiếu với chủ đề của tác phẩm.

Hình ảnh bãi bồi, bến sông và toàn bộ khung cảnh thiên nhiên được miêu tả trong truyện cũng mang ý nghĩa khái quát, tượng trưng. Đó là vẻ đẹp dung dị, tự nhiên của đời sông thể hiện qua những sự vật gần gũi, thân thuộc như một bến đò, một dòng sông, một bãi bồi,… nói rộng ra là quê hương, xứ sở.

Nhiều hình ảnh và chi tiết khác trong truyện cũng chứa đựng ý nghĩa biểu tượng khá rõ: Những bông hoa bằng lăng cuối mùa màu sắc như đậm hơn; tiếng những tảng đất lở ở bờ sông bên này, khi cơn lũ đầu nguồn dồn về, đã đổ ụp vào cả trong giấc ngủ của Nhĩ lúc gần sáng. Hai chi tiết này gợi cho người đọc ý nghĩ là sự sống của nhân vật Nhĩ đã ở vào những ngày cuối cùng.

Đứa con trai của Nhĩ sa vào một đám chơi phá cờ thế trên lề đường là chi tiết giống như điều mà Nhĩ gọi là sự chùng chình, vòng vèo mà trên đường đời, người ta khó lòng tránh khỏi..

Hành động và cử chỉ của Nhĩ ở cuối truyện cũng mang ý nghĩa biểu tượng. Bằng việc đặt nhân vật vào tình huống có tính nghịch lí, truyện Bến quê phát hiện một điều có tính quy luật: trong cuộc đời, con người thường khó tránh khỏi những diều vòng vèo, chùng chình, đồng thời thức tỉnh về những giá trị và vẻ đẹp đích thực của đời sống ở những điều quen thuộc, bình thường mà bền vững muôn đời.

Qua cảnh ngộ và tâm trạng của nhân vật Nhĩ, chúng ta cảm nhận dược ý nghĩa triết lí về cuộc đời con người mà nhà văn dặt ra trong tác phẩm: Hãy cố gắng tìm hiểu và cảm nhận những vẻ đẹp bình dị mà quý giá ẩn chứa trong những gì quen thuộc, gần gũi nhất của gia đình và quê hương.

Truyện được kể theo cái nhìn và tâm trạng của nhân vật Nhĩ, trong một cảnh ngộ đặc biệt. Giọng trầm tư, suy ngẫm của một người từng trải, cùng với giọng xúc động, đượm buồn, có cả sự ân hận và xót xa của một người nhìn vào hiện tại và quá khứ của mình ở cái thời điểm biết mình sắp phải từ giã cuộc đời. Những đoạn tả hàng cây bằng lăng, con sông, bờ bãi bên kia sông là những đoạn vãn rất hay. Tác giả đã miêu tả những sắc thái khác nhau của vẻ đẹp thiên nhiên bằng tính từ chỉ màu sắc và những đường nét tạo hình rất gợi cảm.

Bến quê là một truyện ngắn xuất sắc, chứa đựng những chiêm nghiệm, triết lí sâu sắc về đời người. Những cảm xúc tinh nhạy đã được tác giả thể hiện bằng lời vãn hàm súc, giản dị và những hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng nhưng dễ hiểu.

– Bài làm 2

Truyện Bến quê thấm một nỗi buồn và tình thương khi ta bắt gặp một nhân vật ốm đau bệnh tật nằm liệt giường. Nhĩ là người chồng, người cha, người láng giềng, người bạn bị bệnh đã nhiều, không thể đi lại được nữa, muốn ngồi dậy cũng phải có người nâng đỡ; có lúc anh phải "thu hết tàn lực" mới "lết dần lết dần" ra khỏi phiến nệm nằm, mà anh cảm thấy "như mình vừa bay được một nửa vòng trái đất". Ốm nặng liệt giường đã nhiều tháng ngày, cơ thể anh bị tàn phá nặng nề "phiến lưng đã có nhiều mảng da thịt vừa chai cứng, vừa lở loét".

Truyện Bến quê ghi lại những gì nhìn, nghe thấy, những suy ngẫm và mơ ước. những quan hộ của Nhĩ khi nằm trên giường bệnh, qua 4 cảnh: Nhĩ được Liên săn sóc; Nhĩ sai thằng Tuấn đi sang bên kia sông; Nhĩ được các cháu nhỏ (Huệ, Vân, Tam, Hùng…) đến nương nhẹ, lót chăn, kê gối cho anh; ông giáo Khuyên chống gậy đi qua tạt vào hỏi thăm Nhĩ.

Cốt truyện của Bến quê rất bình dị, "bằng phẳng" nhưng lại mang hàm nghĩa triết lí sâu sắc. Qua nhân vật Nhĩ, một bệnh nhân "sắp từ giã cõi đời", Nguyễn Minh Châu nói lên những suy ngẫm về con người, về cuộc đời và cách sống, thức tỉnh, khơi dậy ở đồng loại hãy biết nâng niu, trân trọng những vẻ đẹp, những giá trị bình dị, gần gũi, quen thuộc của cuộc sống, của quê hương.

1. Nhĩ là một con người từng trải và có địa vị, đi rộng biết nhiều: "Suốt đời Nhĩ đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất": "anh đã từng in gót chân khắp mọi chân trời xu mới 2 năm trước đây, anh còn đi công tác sang một nước bên Mĩ La-tinh. Có thể nói, bao cảnh đẹp những nơi phồn hoa đô hội gần xa, những miếng ngon nơi đất khách quê người, anh đều được thưởng thức, được hưởng thụ. Nhưng những cảnh đẹp gần gũi, những con người tình nghĩa thân thuộc, thân yêu nơi quê hương cho đến những tháng ngày ốm đau nằm trên giường bệnh khi sắp từ giã cõi đời, anh mới cảm thấy một cách sâu sắc, cảm động.
Hoa bằng lăng quê kiểng có gì là đẹp? Lúc mới nở "màu sắc đã nhợt nhạt". Vòm trời và con sông Hồng, bờ bãi, bến đò… có gì xa lạ đối với nhiều người trong chúng ta, nhất là đối với Nhĩ, khi nhà anh ở gần dòng sông ấy. Sớm nay, Nhĩ vừa ngồi để cho vợ bón từng thìa thức ăn vừa nghĩ: Anh cảm thấy hoa bằng lăng trong tiết lập thu đẹp hơn, "đậm sắc hơn". Sông Hồng "màu đỏ nhạt, mặt sông như rộng thêm ra". Bãi bồi phù sa lâu đời ở bên kia sông Hồng dưới những tia nắng sớm đầu thu đang phô ra g'một thứ màu vàng thau xen với màu xanh non – những màu sắc thân thuộc quá như da thịt, hơi thở của đất màu mỡ". Và bầu ười, vòm trời quê nhà "như cao hơn".

Nhìn qua cửa sổ ngôi nhà mình, Nhĩ xúc động trước những cảnh đẹp bình dị của quê nhà. Tại sao trước đây, anh ít nhìn thấy, cảm thấy? Phải chăng vì cuộc sống bận rộn tất tả ngược xuôi? Hay tại bởi vô tình? Qua đoạn miêu tả thiên nhiên ở phần đầu truyện, Nguyễn Minh Châu muốn nhắc khẽ mọi người đừng vô tình mà phải biết gắn bó, trân trọng cảnh vật quê hương xứ sở vì những cái đó là máu thịt, là tâm hồn của mỗi chúng ta. Phải biết phát hiện ra vẻ đẹp bình dị, thân thuộc của quê nhà để nâng niu, yêu quý.

2. Bị ốm đau nằm liệt giường đã lâu ngày, được vợ con săn sóc, trong lòng anh nảy nở bao ý nghĩ, bao tình cảm đằm thắm, sâu nặng, thiết tha. Nshc Liên nói: "Anh cứ yên tâm. vất vả, tốn kém đến bao nhiêu em với các con cũng chăm lo cho anh được", thì Nhĩ "lần đầu tiên để ý thấy Liên đang mặc tấm áo vá". Hình ảnh người vợ tần tảo, giàu đức hi sinh làm cho Nhĩ cảm động, thoáng ân hận về sự vô tình của mình: "Suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm… mù em vẫn "im thinh".

Chưa bao giờ mà Nhĩ nghe rõ thế, những tiếng bình dị thân thương: tiếng vỢ đi lại dọn dẹp và dặn dò con…, Liên hãm nước thuốc và tiếng nước rót ra lẫn mùi thuốc bắc hay vào nhà, "tiếng bước chân rón rén quen thuộc" của người vợ hiền thảo trên "những bậc hồ mòn lõm". Đó là tiếng lòng, tiếng thân thương, không phải lúc nào Nhĩ cũng nghe được, Nhĩ cũng cảm được!

Tuấn là đứa con trai thứ hai của vợ chồng Nhĩ và Liên. Một năm nay vắng nhà, Tuấn đi học xa, tận một thành phố phía nam và vừa mới trở về đêm qua. Bố ốm nặng, Tuấn về thăm bố, thăm mẹ và thăm nhà? Nằm trên giường bệnh ngắm con, Nhĩ xúc động "thấy càng lớn thằng con anh cũng có nhiều nét giống anh". Nhĩ sai con đi sang bên kia sông "qua đò đặt chân lên bờ bên kia, đi chơi loanh quanh… một lát rồi về". Với Tuấn thì đó là "cái việc gì lạ thế" mà bố sai làm, khi cậu đang mải mê xem cuốn truyện dịch. Đứa con trai chưa hiểu được "cái điều ham muốn cuối cùng" của đời bố, mà Nhĩ muốn nói ra. Nhĩ muốn đứa con trai thân thương thay mặt mình đi dạo bước qua sông, để ngắm nhìn những cảnh vật thân quen, bình dị mà hầu như suốt cuộc đời bố đã lãng quên.

Qua khung cửa sổ ngôi nhà, Nhĩ dõi theo hình bóng đứa con đội cái mũ cói vành rộng, mặc chiếc áo sơ mi màu trứng sáo, cắp cuốn sách bên nách "đang sà vào một đám người chơi phá cờ thế trên hè phố". Cái say mê của con bây giờ cũng giống như cái say mê của bố ngày xưa: "Suốt đời Nhĩ cũng đã từng chơi phá cờ thế trên nhiều hè phố, thật là không dứt ra được". Nhĩ trầm ngâm suy nghĩ, lo lắng vẩn vơ: "Không khéo thằng con trai anh lại trễ mất chuyên đò trong ngày". Những trò chơi phá cờ thế, những việc làm vô vị nhạt nhẽo sẽ làm tốn mất bao thời gian, hao tâm trí, bao sức lực… Những trò chơi ấy, việc làm ấy sẽ làm cho tuổi trẻ của nhiều người "trễ mất chuyến đò trong ngày", sẽ làm chậm bước, làm lỡ nhịp một thời trai trẻ. Bằng kinh nghiệm xương máu của mình, "Nhĩ nghĩ một cách buồn bã, con người ta trên đường đời thật khó tránh được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình, vả lại nó đã thấy cô gì đang hấp dẫn ở bên kia sông đâu?". Ý nghĩ ấy mang hàm nghĩa một triết lí nhân sinh sâu sắc về đường đời và mục tiêu cuộc sống. Người xưa có nói: "Thế lộ nan" Lý Bạch), "người tu đi mãi mà thành đường" (Lỗ Tân), v.v… Con đường trong tâm thức của Nhĩ là "vòng vèo", là "chùng chình", vì nhiều người bị lạc đường, lạc hướng, thiếu trí tuệ, không bền chí, hay nản lòng. Tuổi trẻ và thời gian bị lãng phí. Tâm hồn nông cạn, sống thiếu lí tưởng, không có mục tiêu, tầm nhìn hạn hẹp, sao không khỏi vòng vèo, chùng chình, và sẽ không bao giờ tìm thấy cái "hấp dẫn" ở phía trước trên đường đời.

Cuộc sống và cảnh vật ở quanh ta, ở quê ta rất đẹp rất đáng yêu, đó là "sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp", thậm chí cả "những nét tiêu xơ", nhưng phải trải nghiệm, phải sống hết mình mới có thể khám phá, mới có thể phát hiện, mới tìm thấy. Và còn phải có một tấm lòng gắn bó yêu thương.

Có người do tài trí, thời cơ, vận may mà thành đạt. Có người sớm phát hiện ra sự lạc hướng, lạc đường mà điều chỉnh, mà khắc phục. Có nhiều người, rất nhiều người đi suốt hành trình cuộc đời mới nhận ra cái vòng vèo, cái chùng chình, sự lạc đường, lạc hướng của mình, nhưng quỹ thời gian đã vung phí, đã gần đất xa trời… Đời người đầy bi kịch, vì thế, một con người như Nhĩ "đã từng in gót chân khắp mọi chân trời", mãi đến lúc nằm liệt trên giường bệnh, trong những "điều riêng mới khám phá" anh cảm thấy "như một niềm say mê pha lẫn với nỗi ân hận đau đớn" mà "lời lẽ không bao giờ giải thích hết". Cuộc đời là một ẩn số, đường đời là một bài toán khó. nôn "không bao giờ phải thích hết". Thế lộ nan, hành lộ nan là như vậy. Vì thế, phải có trí tụệ, có chí khí, giàu lòng kiên nhẫn, sống có lí tưởng đẹp, mới bớt được rủi ro, mới tránh được vòng vèo, chùng chình, thất bại.

Những cảm nhận, những suy nghĩ của Nhĩ về Liên thật sâu sắc, đầy ân tình ân nghĩa. Từ một cô gái chân quê "mặc áo nâu chít khăn mỏ quạ" rồi thành "một người đàn bù thị thành". Thế nhưng "tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tần tảo và chịu đựng hi sinh từ bao đời xưa". Nhĩ đã trải qua những ngày tháng "bôn tẩu, tìm kiếm", nếm trải bao ngọt bùi, cay đắng, Nhĩ "đã tìm thấy được nơi nương tựa là gia đình", là vợ con mình. Với Nhĩ, gia đình là bến đậu, bến tình thương, bến hạnh phúc.

Cảnh những đứa trẻ (Huệ, Vân, Tam, Hùng) xinh tươi, ngoan ngoãn, nghe Nhĩ gọi, chúng ríu rít chạy lên, xúm vào, nương nhẹ giúp anh xê dịch từ mép tấm nệm ra mép tấm phản, lấy gối đặt sau lưng Nhĩ, làm cho anh như trẻ lại "toét miệng cười với tất cả, tận hưởng sự thích thú được chăm sóc và chơi với". Hạnh phúc ở đâu, hạnh phúc đâu phải cái gì cao siêu, mà rất bình dị, rất nhi nhỏ, có khi chỉ là một ánh mắt, một nụ cười trẻ thơ, một hàn tay nhỏ bé "chua lòm mùi nước dưa",…

Hình ảnh ông cụ giáo Khuyến sáng nào đi qua cũng tạt vào thăm Nhĩ là một hình ảnh ân tình ân nghĩa nuôi dưỡng tâm hồn. Một câu hỏi thăm về sức khỏe, một lời an ủi, động viên ân cần: "Hôm nay ôìĩị’ Nhĩ có vẻ khoẻ ra nhỉ?". Còn gì cao quý hơn, ấm áp hơn, tình nghĩa hơn? Được sống trong tinh yêu '.nương của đồng loại mới thật hạnh phúc. Và đó là sắc màu ý vị trong cuộc đời mỗi chúng ta, là "bến quê" của tâm hồn mỗi chúng ta.

Cụ Khuyến hốt hoảng khi phát hiện ra mặt mũi Nhĩ "đỏ rựng một cách khác thường", hai mắt thì 3,long lanh chứa một mê say đầy đau khổ", và mười đầu ngón tay Nhĩ "đang bấu chặt vào cái bậu cửa sổ, những ngón tay vừa bấu chặt vừa run lẩy bẩy",… Đó là "chút sức lực cuối cùng còn sót lại…" của Nhĩ. Nhĩ sắp ra đi. Con đò chở khách trên sông Hồnq cập bến, mang ý nghĩa một biểu tượng, con đò sẽ đưa Nhĩ tới cõi hư không của một kiếp người…

Bến quê là một truyện ngắn thấm đẫm ý vị triết lí về con người và cuộc đời. Những năm cuối đời, Nguyễn Minh Châu đã trải qua nhiều tháng ngày đau đớn. Bến quê ít nhiều mang tính tự truyện và dự báo nên rất chân thật chân thành. Bài học về tình yêu và lẽ sống được đặt ra một cách cảm động. Có gì hạnh phúc hơn khi được sống trong tình thương với gia đình, quê hương. Phải biết nâng niu, trân trọng những vẻ đẹp và giá trị bình dị, thân thuộc của cuộc sống, của quê hương. Như thế mới thật sự hạnh phúc. Đó là tiếng lòng trang trải của Nguyễn Minh Châu.

– Bài làm 3

Nhân vật Nhĩ trong truyện đang trong hoàn cảnh bệnh tật, không thể đi lại được. Mọi sinh hoạt cá nhân đều phải nhờ đến các thành viên trong gia đình. Xây dựng tình huống này, tác giả muốn thể hiện thân phận con người trong cảnh ngộ phải phụ thuộc.

Những bông hoa bằng lăng ngay từ khi mới nở màu sắc đã nhợt nhạt. Cảnh vật ấy phù hợp với căn bệnh của nhân vật Nhĩ đến nỗi hàng ngàv phải ngồi ngửa cổ lên cho vợ, con bón từng thìa thức ăn.

Trong những ngày cuối cùng của cuộc đời mình, khi nằm trên giường bệnh, Nhĩ đã nhìn thấy qua khung cửa sổ vòm trời như cao hơn, những tia nắng đầu thu đang di chuyển từ mặt nước lên những khoảng bờ bãi bên kia sông và anh khao khát được sống.

Miêu tả cảnh sống của nhân vật trong cái khung cảnh ấy, tác giả muốn thể hiện nỗi đau của nhân vật. Là người hoạt động, trước kia đi khắp đó đây, nay chỉ còn thấy vòm trời qua khung cửa sổ có hoa bằng lăng, có những tia nắng sớm và còn nữa là một bãi bồi phù sa ớ bên kia sông Hồng.

Xây dựng tình huống của nhân vật, tác giá muốn thể nghiệm một điều “Con người không có gia đình, không có quê hương, không thể sống yên lành”. Hay là tình cảm gia đình thực sự là một sự nâng đỡ chăm sóc, đùm bọc khi một thành viên lâm cảnh ốm đau, bệnh tật.

Chính nhờ những bàn tay vợ, con, trong những ngày cuối cùng của đời mình, Nhĩ vẫn còn được thể hiện lòng khát khao được sống. Thiên nhiên và cuộc sống bao giờ cũng phát triển, nảy nở tươi đẹp.

Ở đoạn kết truyện, tác giả đã tập trung miêu tả cái chân dung và cử chỉ của nhân vật Nhĩ với vẻ rất khác thường: “ … mặt mũi Nhĩ đỏ rựng một cách khác thường, hai mắt long lanh chứa một nỗi say mê đầy đau khổ, cả mười đầu ngón tay Nhĩ đang bấu chặt vào cái bậu cửa sổ, Các chi tiết ấy cho thấy tính “khẩn thiết” trong khát vọng được sống một cuộc sống tự do, được hưởng những giây phút bình dị trên chính mảnh đất quê hương

Đó là một mảng đời sống đầy ý nghĩa với tất cả mọi người.

Hình như con người sắp sang bên kia thế giới, thường ôn lại những hình ảnh đầy ấn tượng ấy.

Tác giả để cho nhân vật suy ngẫm rồi rút ra một nhận xét: "Nhĩ đã tìm thấy được nơi nương tựa gia đình trong những ngày này”.

Tác giả miêu tả rất sinh động cái bến đò ngang: “Người đi bộ, người dắt xe đạp. Một vài lớp đàn bà đi chợ về đang ngồi kháo chuyện hoặc sổ tóc ra bắt chấy”

 

Tác giả để cho nhân vật của mình nói đến đứa con mà anh ta tìm mãi không thấy, thì ra: “Thằng bé vẫn cắp cuốn sách bên nách đang sa vào một dám người chơi phá cờ thế trên hè phố”.

Từ đó, nhân vật nhớ lại là mình cũng đã nhiều năm đi chơi phá cờ thế trên vỉa hè, không dứt ra được.

“Nhĩ chợt nhớ ngày bố mẹ anh mới cưới Liên từ một làng bên kia sông về làm vợ anh. Liên vẫn còn mặc áo nâu chít khăn mỏ quạ! So với ngày ấy bây giờ Liên đã trở thành một người đàn bà thị thành. Cũng như: cảnh bãi bồi nằm phơi mình bên kia. Tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tần tảo và chịu đựng hi sinh từ bao đời nay, và cũng chính nhờ có điều đó nhiều ngày tìm kiếm… Nhĩ đã thấy được nơi nương tựa là gia đình trong những ngày này”.

Qua đoạn văn trên, nhà văn Minh Châu đã đưa lên trang giấy những suy ngẫm, trải nghiệm về cuộc đời. Cái nét bình dị, đôn hậu của con người thường gần gũi với cuộc sống, quê hương và đó là nét đẹp đích thực của con người.

– Bài làm 4

Nguyễn Minh Châu là cây bút xuất sắc nhất của văn học Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Ông đã để lại cho văn học nước nhà một sự nghiệp thơ văn khá đồ sộ như : Bức tranh, Dấu chân người lính, Mảnh trăng cuối rừng…Đây là thời kỳ nhà văn đang “đi tìm những hạt ngọc ẩn dấu trong bề sâu tâm hồn của con người” thời kỳ mà con người Việt Nam dường như chỉ sống trong lý tưởng và sống bằng lý tưởng.Nhưng khi đất nước hòa bình, anh đã rất nhạy cảm và nhìn ra được những thay đổi của con người, những cuộc đời trĩu nặng đau thương nhưng nồng nàn khắc khoải với cuộc sống. Đọc “ Bến quê” của Nguyễn Minh Châu đã để lại cho người đọc những ấn tượng sâu đậm.

Tác phẩm được tạo nên bởi cốt truyện thật đơn giản nhưng cũng rất đặc biệt. Tác giả đặt nhân vật của mình vào một căn bệnh hiểm nghèo – đó là bị liệt toàn thân, không thể di chuyển được dù chỉ là nhích người trên giường bệnh. Và anh làm một công việc để có điều kiện đi khắp nơi trên trái đất không xót một xó xỉnh nào. Một cách xây dựng rất tinh tế, ngay mở đầu câu chuyện đã thu hút bạn đọc phải tò mò đọc tiếp những tình huống, chi tiết của truyện.

Nhưng đâu chỉ dừng lại là tình huống trớ trêu ấy mà nhà văn xây dựng lên tình huống khác cũng đầy nghịch lý. Khi Nhĩ phát hiện thấy vẻ đẹp lạ lùng của bãi bồi bên kia sông, ngay phía trước cửa sổ nhà anh, nhưng anh biết rằng mình sẽ không bao giờ được đặt chân lên mảnh đất ấy cho dù nó ở rất gần anh, Nhĩ đã nhờ cậu con trai thực hiện giúp mình cái điều khao khát ấy, nhưng rồi cậu ta lại xa vào một đám chơi cờ trên hè phố và làm lỡ chuyến đò sang sông duy nhất trong ngày. Tạo ra một chuỗi những nghịch lý như trên, tác giả muốn lưu ý người đọc đi đến nhận thức về cuộc đời : đời người chứa nhiều những bất thường, những nghịch lý rất ngẫu nhiên, không ai nói trước và khó tránh được sự vòng vèo đó.

Truyện mở đầu với hình ảnh, Nhĩ từ khung cửa sống của căn phòng đã nhìn thấy những cảnh vật vô cùng tươi đẹp và tràn trề sức sống. Từ gần tới xa Nhĩ nhận thấy : bông hoa bằng lăng tím, con sông Hồng như rộng ra, vòm trời như cao hơn, bãi bồi bên kia sông sao mà gần gũi thế…Một sự cảm nhận bình dị nhưng qua con mắt của một người đã từng đi khắp nơi nay bị bệnh thì lại khác.Phải chăng, có như vậy tác phẩm mới diễn tả hết được những triết lý của cuộc đời và làm hiện lên một không gian có chiều sâu và chiều rộng. Không gian vẫn như xưa mà Nhĩ cảm thấy mới mẻ và giàu đẹp vô cùng. Qua đó tác phẩm muốn rút ra một triết lý cho cuộc đời : quê hương là máu thịt, là tâm hồn của chúng ta, hãy đừng vô tình mà phải biết gắn bó và trân trọng.

Trong mỗi chúng ta ai cũng biết rằng: gia đình, người thân là chỗ dựa tinh thần quan trọng nhất của cuộc đời ta. Đặc biệt đối với nhân vật Nhĩ thì Liên vợ anh là người chăm sóc, quan tâm đến anh nhiều nhất.Nhìn vợ bước xuống cầu thang anh đã xót xa “ suốt cả một đời người đàn bà trên những bậc gỗ mòn lõm” , nhớ đến vợ anh thời con gái còn mặc áo nâu chít khăn mỏ quạ nay đã là một phụ nữa thị thành mà cuộc đời nào có khấm khá gì. Cái nghèo đã không che giấu được của cả gia đình, khi Nhĩ nhìn thấy “ Liên đang mặc áo vá”, cảm nhận “ những ngón tay gầy guộc âu yếm vuốt ve bên vai”. Và Nhĩ nhận ra tất cả tình yêu, sự tần tảo, đức hy sinh thầm lặng của người vợ. Chính trong những ngày cuối đời, nhân vật mới thực sự thấu hiểu lòng biết ơn sâu sắc người vợ của mình “ cũng như cánh bãi bồi đang nằm phơi phới bên kia, tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tần tảo và chịu đựng hy sinh từ bao đời nay và cũng chính nhờ có điều đó mà sau nhiều ngày tháng bôn tẩu, tìm kiếm…Nhĩ đã tìm thấy được nơi nương tựa là gia đình trong những ngày này.

Sang được bờ bên kia sông với Nhĩ vừa là ước mơ vừa là suy ngẫm về cuộc đời. Hình ảnh con sông Hồng phải chăng là ranh giới giữa cái thực và cái mộng mà chiếc cầu nối là con đò qua lại mỗi ngày chỉ có một chuyến. Nhĩ đã nhờ đứa con trai – niềm hy vọng của vợ chồng anh thực hiện ước mơ ấy. Nhưng đứa con trai đã không hiểu được khát khao của người cha, nên làm một cách miễn cưỡng và rồi lại bị thu hút vào trò chơi hấp dẫn ngay bên hè đường “ sà vào đám người chơi phá cờ thế bên hè”, để rồi làm lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày. Hình ảnh đứa con, hình ảnh của ước vọng từ “ cái mũ cói rộng vành và chiếc sơ mi màu trứng sáo” cứ chập chờn, khi là đứa con, khi là chính nhân vật. Từ hoàn cảnh của mình, từ đứa con trai Nhĩ đã chiêm nghiệm được cái quy luật phổ biến của đời người “ con người ta trên con đường đời thật khó tránh được những cái vòng vèo hoặc chùng chình”. Nên anh cũng không trách đứa con trai của mình. Còn với đám trẻ con và ông giáo Khuyến, Nhĩ cũng đã nhận ra tình làng nghĩa xóm vô cùng ấm áp và cần thiết cho con người.

Miền đất bãi bồi bên kia sông cũng gợi trong Nhĩ bao suy ngẫm về cuộc đời thực. Cuộc đời thực ấy đối lập với sự cầu kỳ mà cần đến sự giản dị.Nhưng để hiểu được ý nghĩa của cuộc đời, người ta phải có “ con mắt xanh”, phải “ in gót chân khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một cái bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia”. Cái nghịch lý ấy không triết luận dài dòng mà nằm ngay trong tâm trạng giày vò “ mà lời lẽ không bao giờ giải thích hết giữa say mê và ân hận đau đớn”. Nhưng chặng đường đến với cuộc đời mỗi người lại chọn cho mình một cách riêng, và chặng đường ấy như cuộc chạy tiếp sức từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Có thể nói truyện ngắn “ Bến quê” của Nguyễn Minh Châu chứa đựng những suy ngẫm, những trải nghiệm sâu sắc của tác giả về con người và cuộc đời. Con người cần phải tự ý thức để nhận ra và trân trong những vẻ đẹp bình dị nhưng thiêng liêng bền vững của cuộc sống, của quê hương gia đình. Bên cạnh đó tác giả rất thành cồn ở cách xây dựng tình huống, nhân vật đặc sắc hấp dẫn.Ông như một ngôi sao vút qua bâu trời sáng lòa rồi tan biến vào cõi vĩnh hằng.Nhưng với di sản văn học của ông để lại cho đời, đặc biệt là truyện ngắn trên cũng đáng cho chúng ta tự hào.

– Bài làm 5

“Cây đa, bến nước, mái đình 
Nghìn năm sâu đậm nghĩa tình quê hương”

Câu ca dao gợi tình cảm quê hương, gợi nhớ những bến quê quen thuộc, nơi có những xóm chài với dăm ba mảnh thuyền giăng lưới, nơi có cái xóm lẻ với những rặng tre xanh, vài cây sung chín rụng. Và cái bến quê ấy đã đi vào sáng tác của Nguyễn Minh Châu qua truyện ngắn Bến quê. Qua tác phẩm, tác giả không chỉ tả thực cái bến quê nào đó mà còn muốn gửi gắm những suy nghĩ, trải nghiệm sâu sắc của mình trước cuộc đời, thức tỉnh mọi người về những vẻ đẹp và giá trị cao quý của những điều bình dị gần gũi quanh ta.

Năm 1980, Việt Nam có nhiều biến động về an ninh quốc phòng, về kinh tế, văn hóa tư tưởng… Với Nguyễn Minh Châu, nó còn là thời điểm, một bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp văn chương của ông bởi ông có nhiều tìm tòi đổi mới về đề tài và phong cách sáng tác. Có thể kể đến Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, cỏ lau… và một Bến quê với dấu ấn khó quên có ý nghĩa tổng kết cuộc đời một con người.

Bến quê được rút ra từ tập truyện ngắn cùng tên, là một trong những truyện ngắn đặc sắc của nhà văn để lại nhiều dư ba tốt đẹp. Qua một cốt truyện giản dị, một tình huống nghịch lí nhưng cũng rất đời thường, nhà văn đã phát hiện ra những chiều sâu mới của đời sống với bao quy luật và nghịch lí, vượt ra khỏi giới hạn chật hẹp của những cách nhìn, cách nghĩ trước đó của xã hội và của chính tác giả. Triết lí trong Bến quê góp phần chứng minh cuộc đời thường đa sự, con người đa đoan và cuộc đời Con người chẳng giản đơn chút nào.

Cốt truyện được xây dựng trên một tình huống chứa đựng mâu thuẫn. Nhân vật chính là anh Nhĩ, người đã từng đi khắp đó đây, biết nhiều hiểu rộng, thế giới với anh là không xa lạ nhưng cuối đời anh lại bị cột chặt trên giường bệnh bởi căn bệnh hiểm nghèo. Cái trớ trêu của cuộc đời là ở chỗ đó, khi có thể Nhĩ đã không làm cái điều anh nên làm; còn khi nhận ra cái mình phải thực hiện, anh lại không thể làm được. Cuộc đời con người là xâu chuỗi những nghịch lí.

Nằm trên cái giường đặt cạnh cửa sổ, Nhĩ có thể quan sát được toàn cảnh. Nhưng nhất cử nhất động phải, nhờ vào mọi người. Những ngày tháng nằm trên giường bệnh toàn thân bại liệt như thế, Nhĩ đã có những suy nghĩ gì? Tình huống nghịch lí thứ hai lại xuất hiện không kém phần kịch tính: Nhĩ phát hiện ra vẻ đẹp lạ lùng của bãi bồi bên kia sông ngay phía trước cửa sổ vào một buổi sáng chớm thu mà bình thường anh đã vô tình không nhận ra dù nó ở quanh anh, rất gần. Nhĩ đã nhờ con trai giúp mình thực hiện khát khao đó, nhưng rồi cậu ta mải chơi và để lỡ chuyên đò ngang.

Tạo ra một xâu chuỗi những tình huống nghịch lí như trên, tác giả muốn người đọc suy nghĩ về một vấn đề của cuộc đời: cuộc sống và số phận con người chứa đầy những điều bất thường, ngẫu nhiên, vượt ra ngoài dự định, ước muốn. Qua đó tác giả nêu lên một triết lí mang tính tổng kết về con người và cuộc đời: “Con người ta trên đường đời thật khó tránh được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình…”.

Cảnh vật được tả theo tầm nhìn của Nhĩ, từ gần đến xa, tạo thành một không gian có chiều sâu, rộng: từ “Những chùm hoa bằng lăng cuối mùa thưa thớt nhưng đậm sắc hơn…” đến những “dòng sông màu đỏ nhạt như rộng thêm”, “vòm trời như cao hơn”, “Bờ bãi màu vàng thau xen màu xanh non,..”. Cảm nhận của tác giả về một buổi sáng chớm thu thật tinh tế, cảnh vật vừa quen vừa lạ, tưởng chừng như lần đầu tiên cảm thấy tất cả vẻ đẹp và sự giàu có của nó.
Nhĩ hỏi vợ đến hai câu về không gian (Đêm qua em có nghe thấy tiếng gì không?) và về thời gian (Hôm nay là ngày mấy?), nhưng đều nhận được thái độ im lặng khác thường của vợ. Liên – vợ anh – né tránh câu trả lời bởi nó báo hiệu điềm gở xảy ra. Dường như cảm nhận được điều đó qua thái độ của vợ, Nhĩ nhận ra mình sắp từ giã cuộc đời, anh phải đối diện với thực tế đau buồn, bi đát và không lối thoát này. Một chút xót xa, tiếc nuối, đau đớn trong lòng.

Phải chăng cái gì ta đang có thì ít khi nhận ra giá trị của nó, còn cái gì ta sắp mất ta mới cảm nhận nó quý giá vô cùng. Điều đó càng đúng hơn với trường hợp của Nhĩ. Anh ít khi quan tâm đến vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất của cô gái chít khăn nâu mỏ quạ mới hôm nào theo anh về nhà làm vợ. Đến hôm nay, nằm trên giường bệnh được chị chăm sóc tận tụy, hi sinh cả chuyện áo quần để chồng có chén thuốc chữa bệnh, anh mới nhận ra cô gái chân quê ấy chính là chỗ dựa tinh thần, là mái ấm của anh trong những ngày cuối đời. Có muộn màng lắm không đối với Nhĩ và cả với Liên?

Nhĩ chợt nghĩ ra một sáng kiến: anh nhờ con trai thực hiện nguyện vọng cuối cùng của mình là đặt chân sang bờ bãi bên kia sông Hồng, lòng mong con hiểu được ý định của mình và càng mong có được những cảm nhận và rung động của mình khi sang bến bờ bên kia. Nhưng cuộc đời đâu đơn giản như thế, không phải điều gì muốn là được toại nguyện. Thật ra, khát khao được sang bãi bồi bên kia sông đâu phải là chuyện lớn lao, khó khăn.

Nhưng cái đó đối với Nhĩ thì không thể thực hiện được. Còn đứa con trai không hiểu ý bố. Nó vô tư dừng lại bên đường sa vào phá cờ thế nên để lỡ chuyến đò ngang, chuyến đò duy nhất trong ngày. Nhĩ không trách con, chỉ ngẫm nghĩ và tự trách mình. Con trai anh đã bỏ lỡ Cơ hội này nhưng nó còn nhiều cơ hội khác, còn anh thì đã để mất tất cả, kể cả cơ hội cuối cùng. Anh gửi gắm ước mơ, nguyện vọng nơi con trai – máu mủ của mình – nhưng nó không hiểu ý bố.

Trong Bến quế, hầu như mọi hình ảnh đều mang hai lớp nghĩa: nghĩa thực và nghĩa biểu tượng. Hai lớp nghĩa này gắn bó thông nhất. Dù mang ý nghĩa biểu tượng nhưng trước hết nó vẫn có giá trị tả thực. Đó là hình ảnh bãi bồi bên sông, hoa bằng lăng cuối mùa, những tảng đất lở ở bờ sông, đứa con trai sa vào đám chơi phá cờ thế, Nhĩ khoát khoát tay… tất cả đều có ý nghĩa biểu tượng nhưng vẫn giàu sức gợi tả và biểu cảm.

Câu chuyện được kể lại ở ngôi thứ ba với giọng kể của một người ngoài cuộc nhưng lại rất đồng cảm với nhân vật Nhĩ vĩ được kể từ tầm nhìn của Nhĩ. Cách xây dựng tâm lí nhân vật phù hợp với tình huống và diễn biến câu chuyện. Những đoạn miêu tả rất sinh động bằng đường nét, màu sắc tạo hình, gợi cảm. Tình huống truyện đơn giản mà bất ngờ và nghịch lí.

Đọc truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu nói chung và Bến quê nói riêng, chúng ta đều có chung một cảm nhận: hay và sâu sắc. Nhà văn đã len lỏi vào lâu đài nội tâm của con người để khai thác và thể hiện. Tính nhân văn và triết lí rất cao. Nếu không có những trải- nghiệm thực tế, nếu không có những tìm tòi công phu chắc hẳn Nguyễn Minh Châu khó có được những thành công như hôm nay.

Bến quê đưa ta về một không gian đầy kỉ niệm và cảm xúc mà khó ai quên được:

“Quà sông nhớ mãi con đò 
Chiều quê nặng hạt, cánh cò nhẹ tênh 
Mây xanh dăm vệt bồng bềnh 
Cánh diều ai thả chông chênh cuối làng"

Từ khóa từ Google

0