13/01/2018, 16:43

Phân tích tác phẩm Vào phủ Chúa Trịnh (Trích Thượng kinh kí sự) – Văn hay lớp 11

Phân tích tác phẩm Vào phủ Chúa Trịnh (Trích Thượng kinh kí sự) – Văn hay lớp 11 Phân tích tác phẩm Vào phủ Chúa Trịnh (Trích Thượng kinh kí sự) – Bài làm số 1 của một bạn học sinh giỏi văn tỉnh Điện Biên Hải Thượng Lãn Ông – Lê Hữu Trác không chỉ là một danh y nổi tiếng, mà còn là ...

Phân tích tác phẩm Vào phủ Chúa Trịnh (Trích Thượng kinh kí sự) – Văn hay lớp 11

Phân tích tác phẩm Vào phủ Chúa Trịnh (Trích Thượng kinh kí sự) – Bài làm số 1 của một bạn học sinh giỏi văn tỉnh Điện Biên

Hải Thượng Lãn Ông – Lê Hữu Trác không chỉ là một danh y nổi tiếng, mà còn là một tác giả có nhiều tác phẩm văn học có giá trị thời trung đại. Lê Hữu Trác để lại cho đời một sự nghiệp y học đồ sộ, nổi bật hơn cả là bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh được coi là bách khoa toàn thư về y học thế kỉ XVIII. Các tác phẩm của ông không chỉ có giá trị về y học mà còn mang nhiều giá trị văn học sâu sắc vì đã ghi lại cảm xúc chân thật cùng như bộc lộ tâm huyết, đức độ của người thầy thuốc. Thượng kinh kí sự là tập kí sự nổi tiếng trong cuộc đời Lê Hữu Trác. Tác phẩm kể về cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh và quyền uy thế lực nhà chúa cũng như những điều mắt thấy tai nghe nhân dịp được chúa Trịnh Sâm triệu vào chữa bệnh. Đoạn trích vào Trịnh phủ không chỉ miêu tả cuộc sống xa hoa ở phủ chúa, mà còn thể hiện rõ nét tâm hồn và nhân cách của vị lương y tài hoa đức độ này.

Vào Trịnh phủ là đoạn trích kể lại sự việc tác giả được chúa Trịnh Sâm triệu vào chữa bệnh cho Đông Cung Thế tử Trịnh Cán. Qua đoạn trích, tác giả đã thể hiện chân thực bức tranh sinh động về cuộc sống kiêu sa, vương giả và hiện thực cuộc sông nơi phủ chúa. Vào Trịnh phủ là một phần của tập Thượng kinh kí sự, là tác phẩm thuộc thế kỉ. Vì vậy đoạn trích là lời kể mộc mạc và chân thực, có ghi rõ thời gian Mồng 1 tháng 2, sáng tinh mơ và có sự việc: Có thánh chỉ triệu vào cung. Song điều làm cho chúng ta chú ý đó là cảnh vàng son nơi phủ chúa hiện lẽn vô cùng rực rờ qua cái nhìn của tác giả. Ban đầu Lê Hữu Trác được hò chìm trong khung cảnh vườn phủ chúa: Tôi ngẩng đầu lên, đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đung đưa thoang thoảng mùi hương. Cảnh vật ấy khiến cho ta có cảm giác, nơi đây là một khu vườn địa đàng nào đó trên tiên giới trong các truyện cổ tích dân gian, chứ không phải cảnh ở hiện thực mà tác giả nhìn thấy. Tiếp đến tác giả ghi lại những sự việc minh nhìn thấy: Nlìững dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp, người qua lại như mắc cửi. Đồng thời tác giả cũng bộc lộ những nét suy nghĩ chân thành khi có việc liên quan được đặt chân vào một nơi mà chính tác già cũng nghĩ mình đang ở trong mơ: Tôi nghĩ bụng: mình vốn con quan… Bước chân đến đây mới hay cái cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường. Điều này chứng tó thái độ ngỡ ngàng đến bất ngờ của tác giả. Khung cảnh giàu sang đó là ngoài sức tưởng tượng của ông. Đứng trước cảnh đẹp đệ nhất trời Nam ấy, tâm hồn người thầy thuốc tràn ngập một cảm xúc chân thành cứa một tâm hồn nhạy cảm:

Lính nghìn cửa vác đòng nghiêm ngặt

Cả trời Nam sang nhất là đây…

… Khác gì ngư phủ đào nguyên thủa nào.

Bản thân vốn là một con người không màng danh lợi, nhưng đứng trước khung cảnh hoành tráng này, Lê Hữu Trác không tỏ ra miệt thị, phản diện trong cách nhìn nơi mà ông không hề muốn đến này. Trái lại ông vẫn ngợi ca, vẫn ngập tràn xúc cảm trước vẻ đẹp tuyệt vời nơi đây, có được điều này là do Lê Hữu Trác là nhà thơ có tâm hồn giàu cảm xúc trước thiên nhiên, tạo vật, thế sự. Có một điều chúng ta nhận thấy rằng ông nhìn và cảm nhận bằng con mắt khách quan, đứng trước cảnh đẹp thì ông ngợi ca, nhưng không hoàn toán ngợi ca tất cả, dường như đằng sau những dòng thơ này vẫn ẩn chứa một nỗi niềm u hoài của tác giả:                                                            

Quê mùa cung cẩm chưa quen

Ông tự coi mình là kẻ quê mùa lạc vào chốn cung đình, có khác gì Đào nguyên lạc vào chốn thần tiên. Cảnh thì đẹp đấy, nhưng lòng người nào có vui gì.

Đoạn trích là những trang kí sự giàu cảm xúc về cảnh giàu sang nơi phủ chúa và bệnh tình của thế tử. Nhưng bên cạnh những dòng hiện thực ấy, người đọc vẫn thấy toát lên trên tất cả là một tâm hồn, một nhân cách cao đẹp của danh y Hải Thượng Lãn Ông. Vốn bản thân không màng công danh, ông đã chọn nơi rừng núi yên tĩnh để sống cuộc sống ẩn dật, lấy chim muông làm bầu bạn, hoa cỏ làm niềm vui. Bởi thế mà Lê Hữu Trác dường như xa lạ trước cuộc sống cung đình. Tuy xa lạ nhưng ông không hề ngơ ngác mà vẫn giữ được cái uy nghi, trầm tĩnh của một ẩn sĩ. Trước hàng ngũ quan lại không hề tỏ ra khúm núm, hay kiêu ngạo khi danh tiếng của mình được nhiều người biết đến. Ngôn ngữ ông dùng thật khiêm nhường: Tôi là kẻ nơi quê mùa, làm sao biết được các vị ở nơi triều đình đông đúc như thế này. Ông còn dũng cảm chỉ ra sự ngu dốt của các quan thái y trong triều, đó là việc ông không nghe theo lời ngụ ý của quan chánh đường mà vẫn hành động theo lương tâm nghề nghiệp của mình, trình đơn thuốc lên thánh thượng. Ông cũng là người thấy được căn bệnh thừa mứa, ngu dốt của bọn ở phù chúa một cách chính xác: Vì Thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ… nên phủ tạng yếu đi. Chốn lầu son gác ngọc ấy đã làm cho con người trở nên hao mòn, mất hết nhuệ khí, lại chứa toàn bọn ngu dốt như quan chánh đường và các quan thái y chỉ lo dùng thuốc công phạt theo ý mình. Tỏ ta đây là hiểu biết nhưng chỉ làm cho thế tử ngày càng yếu đi. Thế tử chính là nạn nhân của sự ngu dốt, của sự thừa thãi quá mức nơi phủ chúa. Đó cũng chính là những biểu hiện rõ nét nhất của một triều đại suy đồi đã đến lúc mạt vận, diệt vong, là sản phẩm của một chôn chỉ biết xu nịnh, ăn chơi phè phỡn không lo cho cuộc sống của nhân dân lao động.

Lê Hữu Trác nhanh chóng nhận ra khuyết tật của phủ chúa, phán xét chính xác căn bệnh của thế tử, đồng thời cũng thấy được căn bệnh chung của nơi giàu sang này. Chính vì thế mà có lúc ông đã do dự: Nếu mình làm, sao về núi được nữa, chi bằng ta dùng phương thuốc hòa hoãn, nếu không trúng thì cũng không sai bao nhiêu. Từ xưa đến nay, con người chỉ sợ thất bại, khổ đau. Còn với Lê Hữu Trác thì hoàn toàn ngược lại, ông sợ công danh, sợ uy quyền ràng buộc. Nhưng những suy nghĩ ấy nhanh chóng mất đi, nhường chỗ cho chữ trung, chữ đức cha ông mình đời đời… để nối tiếp cái lòng trung của cha ông mình mới được. Là một nhà nho chân chính, dù lánh xa danh lợi, nhưng để giữ vững khí tiết của mình, ông vẫn đặt chữ trung lên hàng đầu, dù vị chúa mà ông thờ, triều đại mà ông sống là một xã hội thối nát, suy đồi. Ông có thể làm như suy nghĩ ban đầu, không hại ai, cũng không gây đau khổ cho ai, nhưng vì tấm lòng lương y như từ mẫu cứu người không phân biệt sang hèn, đẳng cấp, Lê Hữu Trác đã làm đúng tâm đức của một thầy thuốc. Tấm lòng ấy đáng được ca ngợi.

Phải có một cái nhìn tinh tế, một tâm hồn và nhân cách cao thượng, tác giả mới có cái nhìn sắc sảo và chân thực về cuộc sống xa hoa mà tàn tạ nơi phủ chúa.

Tóm lại, qua đoạn Vào Trịnh phủ chúng ta đã thấy được khung cảnh giàu có, xa hoa nơi phủ chúa, đồng thời cũng nhận thây một nhân cách cao thượng trong con người của danh y Hải Thượng Lãn Ông – Lê Hữu Trác.

Phân tích tác phẩm Vào phủ Chúa Trịnh (Trích Thượng kinh kí sự) – Bài làm số 2

Lê Hữu Trác là thầy thuốc cũng là nhà văn nổi tiếng của nước ta cuối thế kỉ XVIII. Suốt 40 năm sống thanh đạm, rũ bỏ mọi công danh, cụ vừa làm thuốc trị bệnh cứu người, vừa viết sách ý học, vừa sáng tác thơ văn, để lại cho đời một kho tàng quý báu về y học và những bức tranh thật chân xác về cuộc sống và con người thời ấy. Vì thế, đọc văn của Lê Hữu Trác, nhất là cuốn Thượng kinh kí sự (Kí sự lên kinh) chúng ta như được sống cùng thời, cùng nhìn ngắm, cùng suy nghĩ, xúc cảm với tác giả.

Đọc đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh, cái cảm giác ấy càng rõ nét. Vào phủ chúa để chữa bệnh cho Thế Tử Trịnh Cán, bậc danh y tuổi cao, tài lớn đã nhìn thấy những gì? Bước chân đến đây mới hay các cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường!… những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy…, lầu son gác tía, rèm châu, hiên ngọc, sập vàng… Mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ, tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia. Cụ Lê Hữu Trác kể như thế. Chúng ta cũng thấy như thế. Song có lẽ điều chúng ta nhìn thấy rõ nhất là chân dung những con người, mà nổi bật nhất là Thế tử Trịnh Cán. Bậc danh y đã ghi chép sự thực theo thể văn kí sự đặc sắc. Văn kí sự đòi hỏi tính chính xác, khách quan. Song dòng chữ nhà khoa học chảy từ trái tim nghệ sĩ nên bức chân dung ở đây không khô khan, lạnh lẽo. Trái lại mỗi chữ, mỗi câu phập phồng bao tâm sự, vừa châm biếm sâu xa, vừa phê phán mạnh mẽ, vừa giận, vừa thương. Bức chân dung ông chúa Trịnh Cán được tái hiện thật rõ nét, vừa cụ thể, riêng biệt, vừa mang ý nghĩa khái quát điển hình.
 
Để tới nơi ở của chúa nhỏ, cụ Lê Hữu Trác phải đi trong tối om, đi qua độ năm sáu lần trướng gấm. Phòng chúa đặt sập vàng, cắm nến to trên giá đồng, bày ghế rồng sơn son thếp vàng, nệm gấm, ngót nghét chục người đứng hai bên sập hầu trực và sau tấm màn che ngang sân, cung nữ xúm xít… Đèn chiếu sáng, nổi bật màu mặt phấn và màu áo đỏ. Xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt. Chao ơi, chỉ mỗi một chúa nhỏ – thực chất là cậu bé chưa đến tuổi đi học – mà vây quanh bao nhiêu là vật dụng! Gấm vóc, lụa là, vàng ngọc, sập, ghế, đèn, nến, hương hoa, màn trướng… Đồ dùng và đồ dùng, báu vật và báu vật. Vật đã lấn át người như bủa vây, bao chặt lấy con người. Còn con người thì… tưởng như là có, có quá nhiều kia. Song đó cũng chỉ là… những đồ vật câm lặng. Cung tần, mĩ nữ, kẻ hầu người hạ của thế tử đứng ở gần, trực ở xa, tất cả đều chỉ như những cái bóng, vật vờ, mờ ảo. Phòng rộng nhưng chen chúc vật dụng, thành chật chội. Trong phòng đông người, nhưng đều im lặng thành ra lạnh lẽo, băng giá. Bao trùm tất cả là mùi vị phấn son, tuy ngào ngạt nhưng thiếu sinh khí. Trinh Cán – dù là “Đông Cung thế tử’ – cũng phải bắt đầu cuộc sống của đứa trẻ nhỏ, rất cần ánh nắng, khí trời. Vậy mà vị chúa nhỏ đêm ngày bị quây tròn, bọc kín trong cái tổ kén vàng son khác gì mầm non trong vỏ trứng.
 
Hình hài vóc dáng mầm non ấy ra sao? Cụ Lê Hữu Trác kể: “chúa mặc áo đỏ, ngồi trên sập vàng”. Khi thấy vị danh y – theo lệnh quan Chánh đường – lạy bốn lạy, thế tử cười khen: “Ông này lạy khéo!”. Kể cũng ra mặt con nhà chúa, đẹp áo quần, oai tư thế. Song, khi đã đứng dậy, cởi áo để thầy thuốc xem bệnh… thì than ôi, tính khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi to, gân thời xanh, chân tay gầy gò… nguyên khí đã hao mòn, thương tổn quá mức… mạch lại tế sác…, âm dương đều bị tổn hại. Cứ nhỏ nhẹ từng lời trò chuyện với quan Chánh đường, vừa thuật, vừa tả, vừa nhận xét khách quan, khoa học, vị danh y chẩn bệnh cho thế tử, đồng thời miêu tả chân dung con người. Thật đáng sợ! Toàn những đường nét chết: tinh khí khô, mặt khô, những khối hình kì dị: rốn lồi, chân tay gầy gò, mạch tế sác; những màu sắc lạnh người: gân xanh, âm dương, nguyên khí hao mòn tổn hại. Theo ý tôi, đó là vì thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi. Chỉ một lời chẩn bệnh, với nhịp điệu đối xứng màn che, trướng phủ, với điệp ngữ quá no, quá ấm, nhà khoa học có trái tim nghệ sĩ vừa chỉ đúng cội nguồn căn bệnh Trịnh Cán, vừa phê phán, vừa xót xa trước một lối sống trái với lẽ tự nhiên. Cái gì cũng quá: quá nhiều màn che, trướng phủ, quá no, quá ấm, được quá nhiều kẻ hầu hạ. Văn Lê Hữu Trác không có những dòng trữ tình ngoại đề như ở một số tác giả viết kí hiện đại. Cụ rất kiệm lời, nói ít, gợi nhiều. Mỗi câu, mỗi chữ trĩu nặng suy tư và cảm xúc. Hình ảnh thế tử Trịnh Cán chính xác từng chi tiết y học và hiện thực, sinh động, một điển hình văn chương.
 
Chúng ta hãy đọc tiếp đơn thuốc của thế tử: “…sáu mạch tế sác và vô lực, hữu quan yếu, hữu xích càng yếu hơn. Ấy là tì tâm hư, vị hỏa quá thịnh, không giữ được khí dương, nên âm hỏa đi càn. Vì vậy, bên ngoài thì thấy cổ trướng, đó là tượng trưng ngoài thì phù, bên trong thì trống”. Ngôn từ vẫn là của y học, hình hài tinh khí vẫn là ở một con người. Nhưng từng câu, từng chữ cứ lung linh, rộng mở, hiện về rõ nét một chân dung ốm yếu, bệnh tật của giai cấp phong kiến Lê – Trịnh lúc bấy giờ.
 
Cái xã hội ấy không giữ được khí dương, nên âm hỏa đi càn – điều đúng, việc thiện, sự sống không còn, điều xấu, việc ác, cái chết hoành hành, quấy phá. Cái giai cấp ấy, bên ngoài thì cổ trướng… thì phù, trong thì trống. Nghĩa là cuộc sống vật chất đã phù nề, sưng tấy, quá mức giàu sang, phú quý. Trái lại, tinh thần, đạo đức, ý chí, nghị lực – những phần bên trong quan trọng – thì lại rỗng. Nếu đọc đoạn trước và thêm những phần sau của đoạn trích, chúng ta sẽ thấy tác giả Kí sự lên kinh ghi rõ những điều sưng tấy bên ngoài, trống rỗng bên trong của cả tập đoàn phong kiến bấy giờ. Từ chúa Trịnh Sâm, đến bà hoàng Đặng Thị Huệ, quan Chánh đường quận công Hoàng Đĩnh Bảo, các bà hoàng, các ông quan lớn nhỏ khác… người được tô đậm, có người chỉ thấp thoáng. Đó là những điển hình của giai cấp thống trị với bản chất ích kỉ và bạc nhược trên bước đường suy tàn của chúng. Trong những điển hình ấy, thế tử Trịnh Cán là một điển hình nổi bật.
 
Vào phủ chúa Trịnh để chữa bệnh cho chúa lớn, chúa nhỏ, danh y Lê Hữu Trác đã phải làm một công việc không mấy thú vị. Tấm lòng và lẽ sống của ông gửi ở nhân gian, gắn với quê hương, thôn dã. Tuy nhiên, nhờ chuyến đi này, người thầy thuốc, nhà văn ấy đã để lại cho đời một tác phẩm văn chương quý báu, quý báu chẳng kém gì một pho sách y học, những bài thuốc chẩn trị chính xác, hiệu quả. Tìm hiểu và suy nghĩ về hình tượng ông chúa nhỏ Trịnh Cán, qua lời kê đơn, nhận xét vừa y học vừa văn chương của tác giả, chúng ta hiểu ra bao nhiêu điều bổ ích về quy luật sống, về lịch sử, về tấm lòng nhân bản và thái độ nghiêm khắc của nhà khoa học, nhà văn. Căn bệnh của Trịnh Cán, cũng như của triều đại phong kiến Lê – Trịnh cuối thế kỉ XVIII, đã được chẩn rõ ràng. Lịch sử cũng đã tìm ra phương thuốc trị bệnh. Từ áng văn của danh y Lê Hữu Trác, lời chẩn trị của ông cứ theo mãi chúng ta, nhắc nhở chúng ta: “Chính khí ở trong mà thắng, thì bệnh ờ ngoài sẽ tự nó tiêu dần, không trị bệnh mà bệnh sẽ mất”.

Phân tích tác phẩm Vào phủ Chúa Trịnh (Trích Thượng kinh kí sự) – Bài làm số 3

Lê Hữu Trác là một nhà y học tài năng đã để lại cho đời sau một sự nghiệp y học đồ sộ. Người ta còn biết đến ông với tư cách là một nhà văn nhà thơ xuất sắc, ông đã đóng góp vào kho tàng văn học dân tộc những tác phẩm văn chương rất quý giá, trong đó phải kể đến đoạn trích vào phủ chúa Trịnh trong tập kí Thượng kinh kí sự của ông.

Thượng kinh kí sự là tập kí viết bằng chữ hác của Hải Thượng Lãn Ông. Tác phẩm ghi chép lại những điều ông mắt thấy tai nghe trong một chuyến đi từ Hương Sơn (Hà Tĩnh), nơi ông sống ẩn dật, đến kinh đô Thăng Long, vào phủ Chúa theo "thánh chỉ" để chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Tác phẩm cho ta thấy quang cảnh ở kinh đô, quyền uy thế lực của nhà chúa và cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh, đồng thời cũng cho thấy tâm hồn, nhân cách của một vị danh y tài cao, đức trọng. Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh là môt trong những đoạn văn thể hiện tập trung tư tưởng này.

Đoạn trích đã miêu tả tỉ mỉ quá trình cũng như khung cảnh tác giả được triệu vào khám bệnh cho thế tử. Thời gian được ghi rõ là ngày "mồng một tháng hai", "sáng tinh mơ"; và nói rõ nguyên cớ sự việc "có Thánh chỉ triệu vào cung: – đó là đặc điểm của thể kí sự. Ở kinh đô được nhìn thấy cảnh giàu sang, xa hoa, Lê Hữu Trác đã tả lại cảnh ấy một cách chân thực bằng cái nhìn khách quan và tâm hồn giàu cảm xúc. Điều đáng lưu ý là cảnh vàng son nơi phủ chúa hiện lên như một thiên đường: "Tôi ngẩng đầu lên đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương. Những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp. Người giữ của truyền báo rộn ràng"… Tâm hồn tác giả nhảy cảm, giàu tình yêu thiên nhiên, nhưng với cảnh giàu sang, xa hoa nơi phủ chúa, Hải Thượng Lãn Ông vẫn có môt giọng trào lộng.  Tất cả tâm hồn, tình yêu thiên nhiên, cùng thái độ trào lộng ấy đều được thể hiện rõ nét trong việc miêu tả và tự thuật. Hải Thượng viết: "Tôi nghĩ: Mình vốn con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành mình cũng từng biết. Chỉ có những việc trong phủ chúa…. mới hay cái cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường".

Đứng trước cảnh cung vua trang hoàng xa hoa lộng lẫy, tác giả đã phải thốt lên thành thơ, và miêu tả lại cảnh đẹp nơi chốn cung đình này:

"Lính nghìn cửa vác đồng nghiêm nhặt

Cả trời Nam sang nhất là đây!

Lầu từng gác vẽ tung mây,

Rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào.

Quê mùa, cung ấm chưa quen,

Khác gì ngư phủ đào nguyên thuở nào!"

Mới đọc những lời thơ trên, người đọc dễ nhầm tưởng rằng tác giả đang cảm động trước vẻ đẹp của cảnh vật, nhưng thực chất, trong việc ca ngợi cảnh vật là sự mỉa mai châm biếm đối với vua quan nơi phủ chúa mà tác giả không thể bộc lộ thẳng thắn được.

Cảnh cung đình thật tráng lệ và đẹp mắt, hiện lên như ở cõi tiên với những "lầu son, gác tía", "hiên ngọc, rèm châu". Tác giả nói mình là "ngư phủ" lạc vào chốn "đào nguyên" theo tích trong Đào hoa nguyên kí của Đào Tiềm. Nói như vậy không rõ là để ngợi ca phủ Chúa hay là để mỉa mai? Rồi tác giả còn miêu tả cặn kẽ hơn các ngôi điếm và cảnh quan cũng theo cái giọng điệu nửa khen nửa chê ấy: "Điếm làm bên cái hồ, có những cái cây lạ lùng và những hòn đá kì lạ. Trong điếm, cột và bao lơn lượn vòng, kiểu cách thật là xinh đẹp. Bằng những ngôn ngữ miêu tả hết sức chính xác và chân thực, tác giả đã khéo léo ngầm ý phê phán. Ông lên ác cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa một cách kín đáo.

Hải Thưởng Lãn Ông nhận thấy cuộc sống của muôn dân thì khổ cực, đói rách, nhưng trong phủ chúa thì sống xa hoa, sung túc. Đó là sản phẩm của sự bốc lột, trái ngược với đời sống của nhân dân. Ông diễn đạt điều này một cách khéo léo là "cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường".

Hải Thượng Lãn Ông là một thầy thuốc tài giỏi của dân tộc, việc ông được tiến cử chữa bệnh cho thế tử là một cơ hội để tiếng tăm càng nổi hơn, và quan tước sẽ là điều chắc chắn. Song, với Hải Thưởng Lãn Ông tất cả những thứ danh lợi ấy chỉ là phù phiếm. Ông không muốn vướng vào vòng danh lợi, cũng như những bậc ẩn sĩ thời xưa mà Đào Tiềm là một tấm gương.

Ông không màng danh lợi, không ham muốn cuộc sống xa hoa nơi cung điện mà tìm các tránh được việc phải ở lại làm quan. Thực ra thì sự đấu tranh tư tưởng đã diễn ra trong tâm trạng của Hải Thưởng Lãn Ông. Nhưng đó không phải là sự đấu tranh của cái danh lợi với sự trong sạch của tâm hồn, mà là giữa đạo "trung" của kẻ bề tôi với lòng ham "về núi" của kẻ sĩ thời loạn. Và cuối cùng ta thấy lòng ham "về núi" của kẻ sĩ thanh cao đã thắng: ông đã thật sự thoát được khỏi vòng danh lợi, dũng cảm và thông minh để từ chối việc chữa bệnh cho Trịnh Cán, một thế tử trẻ con, ốm yếu, bệnh hoạn…

Khi vào đến phủ chúa, tài năng của ông đã làm cho thái y và quần thần kính nể. Song ông tự nhận thấy rằng, tài năng của ông không được sử dụng để phục vụ cho chốn vua chúa xa hoa, càng không phải để phục vụ việc mưu cầu lợi ích riêng cho mình, mà là để phục vụ cho nhân dân, những người lam lũ và nghèo khổ.

Với tấm lòng vì nước vì dân và tài năng phi thường, qua ngòi bút của mình, Lê Hữu Trác đã tái hiện lại cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa và qua đó, ta thấy hiện lên tâm hồn và nhân cách của Hải Thưởng Lãn Ông: đó là một tâm hồn trong sạch, một nhân cách lớn của một nhà y thuật tài ba và giàu y đức.

Hồng Loan tổng hợp

Từ khóa tìm kiếm:

  • qua quá trình bắt mạch kê đơn chữa bệnh cho thế tử ( vào phủ chúa trịnh ) em cảm nhận thế nào về lê hữu trác
  • phân tích bài vào phủ chúa trịnh
  • phan tich canh chua benh trong phubchua trinh
  • phan tich phan ki su trong bai vao phu chua trinh
  • phân tích phủ chúa trịnh

Bài viết liên quan

  • Kể lại nội dung Bài ca nhà tranh bị gió thu phá – Văn hay lớp 7
  • Thuyết minh về một làng cổ hay phố cổ – Văn hay lớp 9
  • Cảm nghĩ về khu vườn nhà em – Văn hay lớp 7
  • Thuyết minh về một di tích văn hóa cổ – Văn hay lớp 9
  • Tả cái đèn trên bàn học của em – Văn hay lớp 2
  • Thuyết minh về món bánh xèo – Văn hay lớp 8
  • Nghị luận xã hội về tình trạng ô nhiễm môi trường và trách nhiệm của người dân – Văn hay lớp 12
  • Phân tích tác phẩm Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh – Văn hay lớp 9
0