13/01/2018, 10:34

Phân tích tác phẩm Chiếu dời đô (Thiên đô chiếu) – Văn hay lớp 8

Phân tích tác phẩm Chiếu dời đô (Thiên đô chiếu) – Văn hay lớp 8 Phân tích tác phẩm Chiếu dời đô (Thiên đô chiếu) – Bài làm số 1 của một bạn học sinh giỏi tỉnh Đồng Nai Lí Công Uẩn (974 – 1028) quê ở châu cổ Pháp, lộ Bắc Giang, nay là làng Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, ...

Phân tích tác phẩm Chiếu dời đô (Thiên đô chiếu) – Văn hay lớp 8

Phân tích tác phẩm Chiếu dời đô (Thiên đô chiếu) – Bài làm số 1 của một bạn học sinh giỏi tỉnh Đồng Nai

Lí Công Uẩn (974 – 1028) quê ở châu cổ Pháp, lộ Bắc Giang, nay là làng Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, ông là người thông minh, nhân ái, có chí lớn và lập được nhiều võ công hiển hách. Dưới thời Tiền Lê, ông làm quan đến chức Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ. Khi vua Lê Ngọa Triều băng hà, ông được triều thần tôn lên làm vua, xưng là Lí Thái Tổ, lấy niên hiệu là Thuận Thiên. Năm Canh Tuất (1010), Lí Thái Tổ viết bài chiếu bày tỏ ý định dời đô    từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La (tức Hà Nội ngày    nay). Tương truyền khi thuyền nhà vua đến đoạn sông dưới chân thành thì chợt thấy có rồng vàng bay lên. Cho là điềm lành, Lí Thái Tổ nhân đó đổi tên Đại La thành Thăng Long.

Chiếu dời đô phản ánh ý chí tự cường và khát vọng về một đất nước độc lập, thống nhất, lớn mạnh của dân tộc Đại Việt. Bài chiếu có sức thuyết phục mạnh mẽ vì trên thuận ý trời, dưới hợp lòng người, có sự kết hợp hài hòa giữa lí với tình.

Chiếu là một loại văn bản cổ, nội dung thông báo một quyết định hay một mệnh lệnh nào đó của vua chúa cho thần dân biết. Chiếu thường thể hiện một tư tưởng lớn lao có ảnh hưởng đến vận mệnh triều đại, đất nước. Chiếu dời đô cũng mang đầy đủ đặc điểm trên nhưng bên cạnh đó, nó cũng có những nét riêng. Đó là tính chất mệnh lệnh kết hợp hài hòa với tính chất tâm tình. Ngôn ngữ bài chiếu vừa là ngôn ngữ hành chính vừa là ngôn ngữ đối thoại.

Bố cục bài chiếu có thể chia làm ba đoạn:

Đoạn một: Từ đầu đến không thể không dời đổi: Tác giả nêu những dẫn chứng trong sử sách để làm cơ sở cho việc dời đô của mình.

Đoạn hai: Tiếp theo đến phong thái tốt tươi: Tác giả phân tích thực tế là kinh đô cũ không còn thích hợp với sự mở mang phát triển của đất nước cho nên cần thiết phải dời đô.

Đoạn còn lại: Tác giả khẳng định thành Đại La là nơi hội đủ mọi điều kiện thuận lợi để chọn làm kinh đô mới.

Kết cấu nói trên tiêu biểu cho kết cấu của một bài văn nghị luận chính trị xã hội. Bằng phương thức lập luận sắc bén, chặt chẽ, lôgíc, tác giả đã trình bày và thuyết phục mọi người đồng tình với quyết định dời đô của mình. Để chứng minh quyết định dời đô là đúng đắn, tác giả nêu một số dẫn chứng trong lịch sử cổ kim để củng cố lí lẽ, tăng thêm khả năng thuyết phục.

Để giải tỏa tâm trạng băn khoăn của không ít người trước việc dời đô, tác giả khẳng định dời đô là việc làm thường xuyên xảy ra trong lịch sử các triều đại phong kiến từ trước tới nay. Lí Công uẩn viện dẫn gương các triều vua thời cổ đại bên Trung Quốc cũng đã từng dời đô:

Xưa nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần dời đô; nhà Chu đến vua Thành Vương cũng ba lần dời đô. Phải đâu các vua thời Tam đại theo ý riêng mình mà tự tiện chuyển dời? Chỉ vì muốn đóng đô ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu; trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân nếu thấy thuận tiện thì thay đổi. Cho nên vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh.

Đoạn này nêu tiền đề làm chỗ dựa cho lí lẽ mà tác giả sẽ trình bày ở những phần tiếp theo. Trong lịch sử phong kiến phương Bắc đã từng có chuyện dời đô và mang lại những kết quả tốt đẹp, cho nên việc dời đô của Lí Thái Tổ không phải là chuyện bất thường.

Nhà vua khẳng định các bậc đế vương khi quyết định dời đô đều nhằm mục đích mưu đồ nghiệp lớn, xây dựng vương triều phồn thịnh, tính kế lâu dài cho quốc gia, dân tộc. Việc dời đô trên thì thuận theo mệnh trời (tức phù hợp với quy luật khách quan), dưới thì thuận theo ý dân (phù hợp với nguyện vọng của nhân dân) nôn kết quả là đều đem đến sự phát triển thịnh vượng cho quốc gia dân tộc.

Qua việc đưa ra những lí lẽ và dẫn chứng ấy, tác giả khẳng định việc thay đổi kinh đô đối với triều đại nhà Lí là một tất yếu khách quan. Ý định dời đô của Lí Công Uẩn bắt nguồn từ thực tế lịch sử đồng thời thể hiện ý chí mãnh liệt của nhà vua cũng như của dân tộc ta hồi đó. Nhà vua muốn xây dựng và phát triển Đại Việt thành một quốc gia hùng mạnh trong tương lai.

Dựa vào óc quan sát, phân tích kĩ lưỡng tình hình thực tế, ông nêu ra những nhận xét có tính chất phê phán: Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời, không noi theo dấu cũ của Thương, Chu, cứ đóng yên đô thành ở nơi đây, khiến cho triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tốn, muôn vật không được thích nghi. Trẫm rất đau xót về việc đó, không thể không dời đổi.

Theo ông, nếu cứ để kinh đô ở chỗ cũ thì sẽ phạm những sai lầm như không phù hợp quy luật khách quan: lại theo ý riêng mình khinh thường mệnh trời; không biết học theo cái đúng của người xưa: không noi theo dấu cũ của Thương, Chu, cứ đóng yên đô thành ở nơi đây. Hậu quả là triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi… Tóm lại, kinh đô của quốc gia Đại Việt không thể phát triển thịnh vượng trong một vùng đất chật hẹp như thế.

Bằng quan điểm của người thời nay, chúng ta cẩn xem xét, đánh giá thật công bằng về vai trò lịch sử hai triều đại Đinh, Lê. Thực ra, vào giai đoạn đó, cả thế và lực của triều đình chưa đủ mạnh để có thể dời đô ra vùng đồng bằng trống trải nên vẫn phải dựa vào địa thế hiểm trở của rừng núi để chống thù trong, giặc ngoài. Nhưng đến thời Lí, trên đà mở mang phát triển của đất nước thì việc đóng đô ở Hoa Lư không còn phù hợp nữa.

Bôn cạnh lí lẽ sắc sảo, vua Lí Thái Tổ còn dùng tình cảm chân thành để tác động mạnh mẽ tới tâm hồn dân chúng, ông tỏ ra tinh tế, khiêm nhường khi giãi bày ý định của mình. Tính thuyết phục của lí lẽ càng tăng lên khi tác giả lồng cảm xúc của mình vào: Trẫm rất đau xót về việc đó. Cảm xúc đó phản ánh khát vọng của nhà vua là muốn phát triển đất nước thành một quốc gia hùng cường. Tuy nhiên đằng sau lời lẽ mềm mỏng ấy vẫn là một quyết định cứng rắn không thể không dời đổi.

Nhà vua chứng minh ưu thế mọi mặt của thành Đại La và khẳng định đây là địa điểm tốt nhất để đặt kinh đô mới:

Huống gì thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương: Ở vào nơi trung tâm trời đất; được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi nam bắc đông tây; lại tiện hưởng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt; muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi.

Nhà vua dựa vào thuyết phong thủy để phân tích và chứng minh lợi thế và vẻ đẹp muôn mặt của thành Đại La về địa lí, văn hóa, đầu mối giao lưu, điều kiện sống của dân cư và sự phong phú, tốt tươi của cảnh vật.

Thành Đại La ở vị trí trung tâm của đất nước. Có thế rồng cuộn hổ ngồi. Địa hình đa dạng có núi có sông, địa thế cao và khoáng đạt, mở ra bốn hướng nam, bắc, đông, tây, tiện cho việc phát triển lâu dài của quốc gia. Đây cũng là đầu mối giao lưu chính trị, văn hóa và kinh tế của cả nước. Xét toàn diện, thành Đại La có đủ điều kiện tối ưu để trở thành kinh đô mới của Đại Việt. Chứng cớ nhà vua đưa ra có sức thuyết phục rất lớn vì được cân nhắc kĩ càng trên nhiều lĩnh vực, Trên cơ sở đó nhà vua khẳng định:

Xem khắp đất Việt ta, chỉ nơi này là thánh địa. Thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước; cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời.

Tác giả gọi Đại La là thánh địa của đất Việt bởi lẽ ông đã nhận ra nơi đây là đất tốt, đất lành, có thể đem nhiều lợi ích, đồng thời ông tiên đoán Đại La sẽ là chốn tụ hội trọng yếu, cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời.

Kết thúc bài Chiếu dời đô, Lí Thái Tổ không lấy uy quyền của vua chúa để ban bố mệnh lệnh mà lại đặt ra câu hỏi: Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?

Câu hỏi tu từ này thể hiện thái độ tôn trọng của người đứng đầu đất nước đối với triều đình phong kiến đương thời. Có thể coi đây là yếu tố dân chủ tiến bộ trong tư tưởng của Lí Thái Tổ. Lời lẽ bài chiếu mang tính chất đối thoại, tạo sự hiểu biết và đồng cảm giữa nhà vua với các bậc quan lại trong triều đình và dân chúng. Một lần nữa, nhà vua khẳng định quyết tâm dời kinh đô từ Hoa Lư về Đại La của mình.

Chiếu dời đô được viết theo lối văn biền ngẫu với những cặp câu song song, các vế câu đối nhau rất chỉnh về cả ý lẫn lời. Những đoạn văn cân xứng kết hợp và bổ sung cho nhau để thể hiện nội dung tư tưởng của bài chiếu. Tác giả đã thuyết phục người nghe bằng lí lẽ sắc sảo và tình cảm chân thành. Nguyện vọng dời đô của Lí Thái Tổ phù hợp với nguyện vọng của thần dân trăm họ.

Chiếu dời đô phản ánh ý chí độc lập tự cường của dân tộc và sự phát triển lớn mạnh của quốc gia Đại Việt. Qua đó, chúng ta có thể thấy được khát vọng mãnh liệt của tổ tiên về một nước Đại Việt độc lập, thống nhất, hùng cường và tư thế hiên ngang của một quốc gia tự chủ đang trên đà phát triển lớn mạnh. Dời đô từ vùng núi Hoa Lư chật hẹp ra vùng đồng bằng rộng rãi, điều đó chứng tỏ triều đình nhà Lí đã đủ khả năng chấm dứt nạn phong kiến cát cứ trong nước và đủ sức chống cự với quân xâm lược phương Bắc. Việc Lí Thái Tổ định đô ở Thăng Long là thực hiện nguyện vọng của nhân dân thu giang sơn về một mối, để có điều kiện xây dựng đất nước ngày càng lớn mạnh.

Sự đúng đắn của quyết định dời đô đã được lịch sử chứng minh một cách hùng hồn. Thăng Long xưa – thủ đô Hà Nội ngày nay xứng đáng là trái tim của Tổ quốc, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của đất nước, đã vững vàng trước mọi thử thách ác liệt của nhiều cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm.

Phân tích tác phẩm Chiếu dời đô (Thiên đô chiếu) – Bài làm số 2

Lí Công Uẩn quê ở Kinh Bắc, là võ tướng có tài của Lê Bại Hành, từng giữ chức Tả thân vệ Điện tiền chỉhuy sứ. Ông là người tài trí,, đức độ, kín đáo, nhiều hi vọng. Năm 1009, Lê Ngọa Triều chết, Lí Công uẩn được giới tăng lữ và triều thần tôn lên làm vua, lấy hiệu là Lí Thái Tổ và gây dựng nên nhà Lí tồn tại hơn 200 năm. Năm 1010, Lí Thái Tổ viết "Chiếu dời đô" để dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Đại La. Sau khi dời về Đại La, ông đổi tên địa điểm này thành Thăng Long, kinh đô của nước Đại Việt, chính là Hà Nội ngày nay.

Chiếu dời đô của Lí Công uẩn là văn kiện có ý nghĩa lịch sử to lớn. Chính văn bản này đã góp phần khai sinh ra kinh đô của nước ta trong quá khứ và hiện nay.

Phần đầu của Chiếu dời đô nói lên mục đích sâu xa, tầm quan trọng của việc dời đô. Đó là đểđóng đô nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu; trên theo mệnh trời, dưới theo ý dân. Nói một cách khác, việc dời dô là một việc lớn, vừa hợp mệnh trời, vừa hợp lòng dân, là để xây dựng đất nước cường thịnh, đem lại hạnh phúc cho muôn dân.

Việc dời đô không còn là chuyện xưa nay hiếm, nó đã được thực hiện bởi các vị vua trước đó ở Trung Hoa. Tác giả đã nêu lên những dẫn chứng cụ thể để thuyết phục mọi người. Chuyện các vị vua Trung Hoa dời đô để xây dựng đất nước phồn thịnh, chuyện các vị vua Việt Nam thời Đinh – Lê đóng đô ở Hoa Lư làm cho triều đại không vững bền, nhân dân đói kém… Lí Công uẩn đau xót khi chứng kiến vận số ngắn ngủi của nhà Đính, nhà Lê và cảm thấy việc dời đô là một việc làm cấp thiết.

Phần mở đầu của Chiếu dời đô có lí lệ sắc bén, dẫn chứng cụ thể, giàu sức thuyết phục. Tác giả đã lồng cảm xúc vào bài chiếu, tạo nên những ấn tượng đẹp: Trẫm rất đau xót về việc đó, không thể không dời đổi.

Tác giả đã chỉ ra được những điểm thuận lợi của kinh đô mới so với kinh đô cũ. Đại La không có gì xa lạ đối với mỗi người dân Việt lúc đó, nó được Cao Biền đời nhà Đường xây dựng vào thế kỉ thứ IX. Những điểm mạnh của kinh đô đã được Lí Công Uẩn chỉ rõ trong bài chiếu. Vị trí của nó ở vào nơi trung tâm của trời đất… đã đúng ngôi nam bắc đông tây. Địa thế của Đại La rất đẹp, rất hùng vĩ, là thế rồng cuộn hổ ngồi, lại tiện hướng nhìn sông dựa núi, địa thế rộng mà bằng phẳng; đất đai cao mà thoáng.

Rõ ràng đây là một vùng đất lí tưởng thích hợp cho việc đóng đô và quần tụ cư dân. Nó không bị ngập lụt mà muôn vật cũng rất mực phong phú, tốt tươi.

Tóm lại, Đại La là thắng địa, là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của cả nước. Đại La xứng đáng là kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời.

Phần thứ hai của Chiếu dời đô cho thấy tầm nhìn chiến lược của vị vua mở đầu triều Lí, một cái nhìn toàn diện, sâu sắc và chính xác về tất cả các mặt. Điều này hoàn toàn không phải là một ý kiến chủ quan mà chính là khả năng nhìn nhận và tính toán một cách chính xác, quyết đoán. Sau một nghìn năm, Thăng Long xưa nay là Hà Nội đã trở thành kinh đô của hầu hết các triều đại trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Đây chính là cống hiến vĩ đại của Lí Công Uẩn cho lịch sử Việt Nam như câu nói của ông lúc dời đô: mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn dời cho con cháu.

Về mặt văn chương, phần thứ hai của Chiếu dời đô rất đặc sắc. Cách viết hàm súc, giàu hình ảnh và biểu cảm. Vế đối trong các câu rất chuẩn và đạt hiệu quả cao về mặt nghệ thuật.

Phần cuối của bài Chiếu là lời bày tỏ của nhà vua trước quần thần về ý định dời đô, điều này cho thấy nhà vua rất công minh, đức độ trong việc trị nước:

"Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?"

Việc dời đô của Lí Công uẩn là một kì tích, kì công đối với đất nước. Sau một ngàn năm, Thăng Long – Hà Nội đã trở thành kinh đô của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam; là trung tâm kinh tế, quốc phòng, văn hóa lớn của cả nước.

Chiếu dời đô là áng văn xuôi cổ độc đáo, đặc sắc của tổ tiên để lại. Ngôn từ trang trọng đúng như khẩu khí của bậc đế vương. Nó là kết tinh vẻ đẹp tâm hồn và trí tuệ Việt Nam. Nó khơi dậy trong nhân dân ta lòng tự hào và ý chí tự cường mạnh mẽ.

Phân tích tác phẩm Chiếu dời đô (Thiên đô chiếu) – Bài làm số 3

"Chiếu dời đô” là áng văn chính luận, lí lẽ sắc bén dưới cái nhìn vượt thời đại của vua Lý Thái Tổ. Tác phẩm ra đời không chỉ để thông báo quyết định rời kinh thành từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra Đại La (Hà Nội) mà còn cho thấy tầm nhìn xa trông rộng của một minh quân dân chủ, thấu ý trời tỏ lòng dân.

Vua Lý Công Uẩn được biết đến là vị vua ban hành nhiều chính sách khuyến khích phát triển kinh tế – xã hội, có giá trị to lớn trong xây dựng và phát triển đất nước. Đương thời, ông nhận thấy kinh thành Hoa Lư không còn phù hợp cho việc giao thương buôn bán, vì thế nhà vua đã đưa ra quyết định rời kinh thành từ Hoa Lư tới Đại La, nay là Thăng Long, Hà Nội. Và “Chiếu dời đô” khi được ban hành xuống đã trở thành một tác phẩm trong nền văn học Việt Nam. Tác phẩm không chỉ có ý nghĩa về mặt lịch sử mà còn mang ý nghĩa nhân văn, văn học sâu sắc

Chiếu là loại văn thể hiện tư tưởng lớn lao có sự ảnh hưởng tới sự phát triển của đất nước; mang nội dung thông báo một mệnh lệnh, một quyết định của vua chúa cho dân chúng được biết. Với “Chiếu dời đô”, ta thấy nó mang đặc trưng chung của thể chiếu, tuy nhiên có những nét rất riêng với sự kết hợp giữa tâm tình và chất mệnh lệnh.

Tác phẩm được chia thành 2 phần, phần đầu tiên phân tích những lý do cần thiết phải dời kinh thành và phần 2 là lý do tại sao chọn Đại La làm kinh đô mới của đất nước. Thông qua những bài học lịch sử, dẫn chứng những ví dụ chuyển kinh đô của nước bạn Trung Quốc. Chuyện rời đô từ xưa không còn là chuyện hiếm, mục đích cuối cùng cũng vì sự hưng thịnh của quốc gia

Kinh thành Hoa Lư với núi non hiểm trở không còn phù hợp trong thời bình, với lợi thế và địa hình núi rừng như vậy chỉ phù hợp trong thời chiến còn khi hòa bình lại trở thành khó khăn. Nhân dân lúc này cần một nơi có địa hình bằng phẳng, đất đai màu mỡ, giao thông thuận lợi để thúc đẩy giao lưu và buôn bán. Bộ máy hành chính cần được đặt ở trung tâm của đất nước. Và dời đô lúc này chính là hợp ý trời và thuận lòng dân.

Lý Công Uẩn đã chứng minh rằng Đại La xứng đáng là kinh đô của nước Việt muôn đời “Huống gì thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương: Ở vào nơi trung tâm trời đất; được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi nam bắc đông tây; lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt; muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi”. 

Thành Đại La dưới góc nhìn và phân tích của nhà vua hiện lên là vị trí trung tâm của đất nước, là đầu mối giao lưu kinh tế, văn hóa, chính trị của cả nước. Có thể rồng cuộn hổ ngồi, địa hình đa dạng, khoáng đạt, mở ra bốn hướng tiện cho sự phát triển bền vững của quốc gia. Thành Đại la sở hữu mọi điều kiện để trở thành kinh đô mới của Đại Việt ta.

“Chiếu dời đô” là áng văn chính luận có giá trị sâu sắc, thể hiện tài năng, tầm nhìn xa trông rộng bắt nguồn từ thực tế lịch sử vì một Đại Việt hùng mạnh trong tương lai.

Phân tích tác phẩm Chiếu dời đô (Thiên đô chiếu) – Bài làm số 4

Chiếu, chế, hịch, cáo nói chung là những văn bản hành chính, công vụ, thường là những mệnh lệnh hoặc lời kêu gọi, thông báo từ trên ban xuống. Tác giả của nó, hoặc người ở vào tư thế phát ngôn phải là bậc vua chúa hoặc chủ tướng công bố một đường lối, chủ trương mà nhữne thần dân hoặc tướng sĩ dưới quyền phải hết lòng thực hiện hoặc tường trình một sự kiện lịch sử nổi bật để mọi người cùng nghe. Tuy nội dung đề cập đến những vấn đề rất rộng nhưng cái đích phải đạt tới là sự thống nhất có tính chất toàn dân. Còn phương tiện, cách thức trình bày, nó phải là một bài văn nghị luận, phải dựa vào lí lẽ, lập luận để thuyết phục trăm họ, muôn dân. Với những văn bản nói trên, trong tình hình văn sử bất phân (văn nghệ và học thuật là những khái niệm thể loại chưa phải đã rạch ròi), chơ đến nay nhìn lại không thể trước tác nào cũng gọi là văn chương. Hoặc chỉ có giá trị văn chương đến một mức nào đó, nhưng vãn bản lại gắn liền với một sự kiện lịch sử lớn lao chẳng hạn thì cũng không nên nhất loạt bỏ qua. Chiếu dời đô nằm trong tình hình ấy, nhưng đầy chất văn chương, nhất là văn xuôi trong chặng đường lập quốc. Nó cũng là khí phách của dân tộc Đại Việt đang trên đà lớn mạnh. Sức thuyết phục của nó là ở chỗ tuy là tiếng nói của một người nhưng hội tụ tấm lòng của hàng triệu người, của toàn dân tộc. Để có thể đi.vào lòng người còn phải có lí lẽ, có lập luận, cách trình bày sao cho mạch lạc, rõ ràng. Tính hùng biện muốn được phát huy phải gắn với tính trữ tình nhằm tạo được sự tri ân, cảm hoá.

Ưu điểm nổi bật của Chiếu dời đô là sự tập trung cao độ vào nội dung cần bàn: Vì sao việc thay đổi kinh đô "không thể dời đổi"? Trong việc thay đổi ấy chỉ một nơi có thể định đô, đó là "Nơi kinh đô bậc nhất của đê vương muôn đời". Trên tinh thần ấy, lập luận không thừa một ý, diễn đạt không lãng phí một câu, nội dung và hình thức gần với một thứ văn bia vô cùng hàm súc. Đây cũng là một thứ mẫu mực cho bút pháp cổ văn.

Toàn bộ bài văn hình thành hai luận điểm lớn:

1. Việc thay đổi kinh đô đối với triều đại nhà Lí là một tất yếu khách quan:

Việc thay đổi ấy có tính chất quy luật, không thể khư khư bảo thủ chủ quan "theo ý riêng mình". Cái ý khách quan ấy thể hiện ở cả hai yếu tố: "trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân". Cả hai yếu tố hội tụ được lợi ích lâu dài: chỉ có "đóng đô ở nơi trung tâm" mới có khả năng "mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu" lâu dài. Mục đích của việc dời đô là như thế. Song nhận thức được nó hay không còn tuỳ thuộc vào nhãn quan, tầm nhìn chật hẹp hay xa rộng của mỗi thời, của mỗi triều đại.

Bắt chước người xưa mà không nệ cổ, ấy là một cách nghĩ phóng khoáng, canh tân. Sự lựa chọn nên hay không nên, lập luận của tác giả dựa vào thực tế xưa và nay. Sự đối lập giữa hai cách hành động, hai cách nghĩ khác nhau, tự nó bật lên chân lí: xưa không hẳn đã là cổ hủ, nay tuy là mới, nhưng chưa hẳn đã thức thời. Vậy xưa và nay, chẳng cần phân biệt, cứ đúng mà làm "nếu thấy thuận tiện thì thay đổi". Lấy cái đúng của hôm nay mà soi vào quá khứ, Lí Công uẩn đã bắt gặp cách nghĩ của người xưa. Kế tục truyền thống, phát huy truyền thống cần có một sự sáng suốt sàng lọc, đó là một phương châm, phương hướng nên làm. Tất cả những sự nên hay không nên, lập luận diễn ra ba bước: hành động dời đô hay "đóng yên đô thành" một chỗ, mục đích của việc dời đô và kết quả của việc dời đô. Xưa, nhà Thương, đến đời vua thứ mười bảy (Bàn Canh) có đến năm lần dời đô. Tiếp nối nhà Thương, đến Chu Thành Vương cũng làm như thế tính đến ba lần. Những quyết định táo bạo ấy phải đâu là hiếm hoi, chỉ làm trone muôn một? Mục đích và kết quả của việc dời đô ấy đã rất nhỡn tiền, mắt thấy tai nghe, không ai không công nhận. Vì đã được thừa nhận, tác giả chỉ nhắc qua "Cho nên vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh". Không tán thành cách làm "Không noi theo dấu cũ của Thương, Chu" của hai nhà Đinh, Lê, lập luận có tính chất phê phán chỉ còn hai bước của tư duy được nhấn mạnh nhiều hơn. Cái lỗi của hai nhà Đinh, Lê có đến bốn điều cần phủ nhận là "lại theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời, không noi theo dấu cũ của Thương, Chu, cứ đóng yên đô thành ở nơi đây". Sức thuyết phục của lối văn tranh luận không phải ở sự dài lời. Bốn vế đầu của câu văn như những mũi tên trí tuệ bắn ra nhằm vào một cái đích: ấy là sự lẽ ra phải đổi thay của hai nhà Đinh, Lê trong hiện tại. Hậu quả của nó, thông qua phép đối, dưới hình thức biển văn, sự hô ứng thật muôn lần sáng tỏ được thể nghiệm tức thời bằng bốn vế tiếp theo đầy thuyết phục "khiến cho triều đại không được lâu bẽn, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tốn, muôn vật không được thích nghi".

2. Thành Đại La là một nơi định đô lí tưởng:

Ngay khi nhìn ngắm vào hai tấm gương phải trái khác nhau, tác giả đã lộ rõ ý mình: không thể không thay đổi cách nghĩ, cách làm. Nhưng tỏ ra tinh tế, khiêm nhường, tác giả chỉ giãi bày cách cảm: "Trẫm rất đau xót về việc đó", tuy vậy không phái không ngầm ý quyết đoán, một quyết đoán không gì cưỡng được vì nó hợp với mệnh trời: "không thể không dời đổi". Phủ định một điều phủ định chính là sự khẳng định. Ây là chân lí của tư duy.

Ý tưởng của nhà vua trong việc định đô ở Đại La thuyết phục người nghe ở cả hai yếu tố: lí lẽ và tình cảm, nội dung và hình thức diễn đạt, trình bày về lí lẽ, lợi thế của Đại La được trình bày rất kĩ lưỡng với một số lượng câu không ít, nó như nốt nhấn của bài văn. Bốn câu văn đầy trọng lượng này lại được nhân lên gấp đôi bởi mỗi câu có đến hai vế, mỗi vế lại có sức tác động riêng bổ sung cho nhau, thật là tầng tầng lớp lớp. Nội dung của đoạn văn dựa vào thuyết phong thuỷ mà phát hiện ra vẻ đẹp muôn mặt của Đại La: nào là vị thế địa lí, vị thế văn hoá, đầu mối giao lưu, điều kiện dân cư và sự tốt tươi cho muôn vật. Đại La như một viên ngọc, nếu có ánh sáng của nhận thức soi vào, nó lấp lánh lên bao điều ngưỡng mộ. Tình cảm của người viết dù không muốn lộ ra vẫn ngập tràn trong tiết tấu, nhịp điệu, trong từng chữ, từng câu "lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu" như thế. Yêu mến Đại La là xuất phát từ ý đồ "mưu toan nghiệp lớn", là một tầm nhìn xa rộng đến mai sau, vì lợi ích của muôn dân trăm họ. Nội dung đầy chất trí tuệ và tâm hồn ấy được diễn tả bằng hình thức biền văn chuẩn mực. Hình thức này đã góp phần không nhỏ vào hiệu quả của đoạn văn. Thử nêu một ví dụ về phép đối, chảng hạn, đối ý, đối lời, đối thanh, đối nhịp. Ở đây, tác giả đã khá dụng công, ví dụ: ngay ở câu đầu hai vế: "Ở vào nơi trung tâm trời đất ; được cái thế rồng cuộn hổ ngồi", mỗi vế có bảy chữ, bằng trắc thay nhau thật du dương trầm bổng. Ấy là chưa nói xen giữa những câu dài là những câu ngắn có tác dụng bắc cầu cho câu dài tiếp nối cái mạch văn đầy hứng khởi trào dâng. Chẳng hạn như câu: "Địa thế rộng mà bằng ; đất đai cao mà thoáng", sau đó tiết tấu dãn ra: "Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt ; muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi". Để sơ kết, cũng là để nhấn mạnh về ưu thế tuyệt vời của thế đất Đại La, tác giả sử dụng nhịp văn dồn dập với những cách tôn vinh không đơn điệu: đã là nơi "thắng địa", "chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương" còn là "nơi kinh đô bậc nhất",… Lập luận và lí lẽ đến mức ấy thì câu kết của bài dù chỉ là bỏ ngỏ ("Các khanh nghĩ thế nào?") tưởng như chưa có hồi âm, nhưng thực ra thì đáp số đã nằm ngay trong đó.

Sự kiện dời đô tuy trong sử sách là một công việc bình thường, tuỳ thuộc vào yếu tố khách quan (ý trời, vận nước), vào yếu tố chủ quan (tầm nhìn của người chèo lái), nhưng ở vào thời điểm Lí Cống uẩn dời đô thì đó là một cái mốc, một bước ngoặt lớn lao, một sự kiện phi thường. Phải có tiềm lực (vật chất, tinh thần đến một mức mà thời Đinh, Lê chưa có), phải có một khát vọng, một ý chí, quốc gia đó mới đủ sức vươn lên bằng cách thoát ra cái vỏ bọc giam mình trong cái thế giậm chân tại chỗ. Nếu trong truyền thuyết có một Phù Đổng vươn vai đánh giặc giữ nước thì hành động của Lí Công uẩn chẳng phải là hành dộng đó hay sao, trong sự nghiệp dựng nước thời bình? Sự nghiệp ấy và bài vãn ấy như hai hiện tượng sóng đôi đã đi vào lịch sử và vãn chương như một sự kế tục và khơi nguồn để con sông "đỏ nặng phù sa" của lòng yêu nước thêm sâu, thêm rộng.

Hồng Loan tổng hợp

Từ khóa tìm kiếm:

  • tác phẩm chiếu dời đô

Bài viết liên quan

  • Thuyết minh về Dân ca quan họ Bắc Ninh – Văn hay lớp 12
  • Thuyết minh về danh lam thắng cảnh Bến Ninh Kiều – Văn hay lớp 8
  • Thuyết minh về một vùng quê đẹp – Văn hay lớp 9
  • Kể lại chuyến đi thăm di tích lịch sử – Văn hay lớp 6
  • Phân tích tác phẩm Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh – Văn hay lớp 9
  • Nghị luận xã hội về câu nói: Hiền tài là nguyên khí của quốc gia – Văn hay lớp 12
  • Thuyết minh về ca Huế – Văn hay lớp 12
  • Nghị luận xã hội về câu tục ngữ Pháp: Tiền bạc là người đầy tớ trung thành và là người chủ xấu – Văn hay lớp 12
0