Phân tích sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư?
Phân tích sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư? - Quá Irình sản xuất tư bản chủ nghĩa trước hết là quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng. Nhưng mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị, hơn ...
Phân tích sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư?
- Quá Irình sản xuất tư bản chủ nghĩa trước hết là quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng. Nhưng mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị, hơn nữa là giá trị thặng dư.
- Quá Irình sản xuất tư bản chủ nghĩa trước hết là quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng. Nhưng mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị, hơn nữa là giá trị thặng dư. Vì vậy, quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là một quá trình hai mặt: quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. Vấn đề ở đây là xét mặt thứ hai của quá trình sàn xuất tư bản chủ nghĩa.
- Để hiểu rõ quá trình sản xuất giá trị thặng dư, chúng ta lấy việc sản xuất sợi của một nhà tư bản làm ví dụ. Đây là sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình lớn lên của giá trị hay là quá trình sản xuất giá thị thặng dư.
Giả định để sản xuất 10 kg sợi, cần 10 kg bông và giá 10 kg bông là 10 $. Để biến số bông đó thành sợi, một công nhân phải lao động trong 6 giờ và hao mòn máy móc là 2 $; giá trị sức lao động trong một ngày là 3 $ và ngày lao động là 12 giờ; trong 1 giờ lao động, người công nhân tạo ra một lượng giá trị là 0,5 $; cuối cùng giả định trong quá trình sản xuất sợi đã hao phí theo thời gian lao động xã hội cần thiết.
Với giả định như vậy, nếu nhà tư bản chỉ bắt công nhân lao động trong 6 giờ, thì nhà tư bản phải ứng ra là 15 $ và giá trị của sản phẩm mới (10 kg sợi) mà nhà tư bản thu được cũng là 15 $. Như vậy, nếu quá trình lao động chỉ kéo dài đến cái điểm đủ bù đắp lại giá trị sức lao động (6 giờ), tức là bằng thời gian lao động tất yếu, thì chưa có sản xuất ra giá trị thặng dư, do đó tiền chưa biến thành tư bản.
Trong thực tế, quá trình lao động không dừng lại ở điểm dó. Giá trị sức lao động mà nhà tư bản phải trả khi mua và giá trị mà sức lao động đó có thể tạo ra cho nhà tư bản là hai đại lượng khác nhau, mà nhà tư bản đã tính đến trước khi mua sức lao dộng. Nhà tư bản đã trả tiền mua sức lao động trong một ngày (12 giờ). Việc sử dụng sức lao động trong ngày đó là thuộc quyền của nhà tư bản.
Nếu nhà tư bản bắt công nhân lao động 12 giờ trong ngày như đã thoả thuận thì:
Chi phí sản xuất |
Giá trì sản phẩm mới (20 kg sợi) |
-Tiền mua bông (20 kg): 20 $ -Tiền hao mòn máy móc: 4 $ -Tiền mua sức lao động trong 1 ngày: 3 $ |
- Giá trị của bông được chuyển vào sợi: 20 $ - Giá trị của máy móc được chuyển vào sợi: 4 $ - Giá trị mới do lao động của công nhân tạo ra trong 12 giờ lao dộn 6 $ |
Tổng cộng: 27 $ |
Tổng cộng: 30 $ |
Như vậy, toàn bộ chi phí sản xuất mà nhà tư bản bỏ ra là 27 $, còn giá trị của sản phẩm mới (20 kg sợi) do công nhân sản xuất ra trong 12 giờ lao động là 30 $. Vậy 27 $ ứng trước đã chuyển hoá thành 30 $, đã đem lại một giá trị thặng dư là 3 $. Do đó tiên tệ ứng ra ban đầu đã chuyển hoá thành tư bản.
- Từ sự nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư có thể rút ra những kết luận sau đây:
Một là, phân tích giá trị sản phẩm được sản xuất ra (20 kg sợi), chúng ta thấy có hai phần:
* Giá trị những tư liệu sản xuất nhờ lao động cụ thể của công nhân mà được bảo toàn và di chuyển vào sản phẩm mới gọi là giá trị cũ (trong ví dụ là 24 $).
* Giá trị do lao động trừu tượng của công nhân tạo ra trong quá trình sản xuất gọi là giá trị mới (trong ví dụ là 6 $). Phần giá trị mới này lớn hơn giá tri sức lao động, nó bằng giá trị sức lao động cộng với giá trị thặng dư.
Vậy, giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mà dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không.
Hai là, ngày lao động của công nhân bao giờ cũng đưcc chia thành hai phần: phần ngày lao động mà người công nhân tạo ra một lượng giá trị ngang với giá trị sức lao động của mình gọi là thời gian lao động cần thiết và lao động trong khoảng thời gian đó là lao động cần thiết. Phần còn lại của ngày lao động gọi là thời gian lao động thặng dư và lao động trong khoảng thời gian đó gọi là lao động thặng dư.
Ba là, sau khi nghiên cứu quá trình sản xuất giá thặng dư, chúng ta nhận thấy mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản đã được giải quyết. Việc chuyển hoá của tiền thành tư bản diễn ra trong lưu thông, mà đồng thời không diễn ra trong lĩnh vực đó. Chỉ có trong lưu thì nhà tư bản mới mua được một thứ hàng hoá đặc biệt, đó hàng hoá sức lao động. Sau đó nhà tư bản sử dụng hàng hoá đặc biệt đó trong sản xuất, tức là ngoài lĩnh vực lưu thông để sản xuất ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Do đó tiền của nhà tư bản mới chuyển thành tư bản.
soanbailop6.com