25/05/2018, 15:46

Phân tích hoạt động tín dụng tại các NHTM

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị tường là sự phát triển mạnh mẽ của các Doanh nghiệp. Các doanh nghiệp để có thể đứng vững trên thương trường thì cần phải có vốn để đầu tư và tín dụng ngân hàng là một trong những nguồn vốn tối ưu để doanh nghiệp có ...

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị tường là sự phát triển mạnh mẽ của các Doanh nghiệp. Các doanh nghiệp để có thể đứng vững trên thương trường thì cần phải có vốn để đầu tư và tín dụng ngân hàng là một trong những nguồn vốn tối ưu để doanh nghiệp có thể khai thác. Các doanh nghiệp phát triển cũng có nghĩa là nền kinh tế phát triển. Như vậy, tín dụng ngân hàng là đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và góp phần điều hành nền kinh tế thị trường.

Trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng, hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng nhất, nó chiếm tỉ trọng đa số trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. Tín dụng có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân và nó cũng quyết định đến sự phát triển hay thất bại của một NHTM.

Để có thể hiểu rõ về hoạt động tín dụng của NHTM và cai trò to lớn của nó trong nền kinh tế em xin chọn đề tài “Phân tích hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại” làm đề án của mình

Ngân hàng thương mại

Định nghĩa ngân hàng thương mại

Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền kí gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.

Các chức năng của ngân hàng thương mại

Chức năng trung gian tín dụng

Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng, NHTM đóng vai trò là cầu nối giữa người thừa vốn và người có nhu cầu về vốn. Với chức năng này, ngân hàng thương mại vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay và hưởng lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa lãi suất nhận gửi và lãi suất cho vay và góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia: người gửi tiền và người đi vay...

Chức năng trung gian thanh toán

Ở đây NHTM đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ.

Các NHTM cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán tiện lợi như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng… Tùy theo nhu cầu, khách hàng có thể chọn cho mình phương thức thanh toán phù hợp. Nhờ đó mà các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền để gặp chủ nợ, gặp người phải thanh toán dù ở gần hay xa mà họ có thể sử dụng một phương thức nào đó để thực hiện các khoản thanh toán. Do vậy các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo thanh toán an toàn. Chức năng này vô hình chung đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế.

Chức năng tạo tiền

Tạo tiền là một chức năng quan trọng, phản ánh rõ bản chất của NHTM. Với mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận như là một yêu cầu chính cho sự tồn tại và phát triển của mình, các NHTM với nghiệp vụ kinh doanh mang tính đặc thù của mình đã vô hình chung thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế.

Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của NHTM là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ… Với chức năng này, hệ thống NHTM đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Ngân hàng thương mại tạo tiền phụ thuộc vào tỉ lệ dự trữ bắt buộc của ngân hàng trung ương đã áp dụng đối với nhtm. do vậy ngân hàng trung ương có thể tăng tỉ lệ này khi lượng cung tiền vào nền kinh tế lớn.

Các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng

Sự gia tăng của các sản phẩm dịch vụ

Ngày nay, các ngân hàng đang mở rộng danh mục sản phẩm dịch vụ tài chính mà họ cung cấp cho khách hàng. Qúa trình mở rộng danh mục sản phẩm dịch vụ đã tăng tốc trong những năm gần đây dưới áp lực cạnh tranh gia tăng từ các tổ chức tài chính khác, từ sự hiểu biết và đòi hỏi cao hơn của khách hàng, và từ sự thay đổi công nghệ.

Sự gia tăng cạnh tranh

Sự cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ tài chính đang ngày càng trở nên quyết liệt khi ngân hàng và các đối thủ cạnh tranh mở rộng danh mục sản phẩm dịch vụ. Các ngân hàng địa phương cung cấp tín dụng, kế hoạch tiết kiệm, kế hoạch hưu trí, dịch vụ tư vấn tài chính cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng. Đây là những dịch vụ đang phải đối mặt với sự cạnh tranh trực tiếp từ các ngân hàng khác, các hiệp hội tín dụng, ngân hàng đầu tư Merrill Lynch, các công ty tài chính như GE Capital và các tổ chức bảo hiểm như Prudential. Áp lực cạnh tranh đóng vai trò như một lực đẩy tạo ra sự phát triển dịch vụ cho tương lai.

Sự gia tăng chi phí vốn

Sự nới lỏng luật lệ kết hợp với sự gia tăng cạnh tranh làm tăng chi phí trung bình thực tế của tài khoản tiền gửi – nguồn vốn cơ bản của ngân hàng. Với sự nới lỏng các luật lệ, ngân hàng buộc phải trả lãi do thị trường cạnh tranh quyết định cho phần lớn tiền gửi. Đồng thời, Chính phủ yêu cầu các ngân hàng phải sử dụng vốn sở hữu nhiều hơn – một nguồn vốn đắt đỏ - để tài trợ cho các tài sản của mình. Điều đó buộc họ phải tìm cách cắt giảm các chi phí hoạt động khác như giảm số nhân công, thay thế các thiết bị lỗi thời bằng hệ thống xử lý điện tử hiện đại. Các ngân hàng cũng buộc phải tìm các nguồn vốn mới như chứng khoán hóa một số tài sản, theo đó một số khoản cho vay của ngân hàng được tập hợp lại và đưa ra khỏi bảng cân đối kế toán; các chứng khoán được đảm bảo bằng các món vay được bán trên thị trường mở nhằm huy động vốn mới một cách rẻ hơn và đáng tin cậy hơn. Hoạt động này cũng có thể tạo ra một khoản thu phí không nhỏ cho ngân hàng, lớn hơn so với các nguồn vốn truyền thống (như tiền gửi).

Sự gia tăng của các nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất

Các qui định của Chính phủ đối với công nghiệp ngân hàng tạo cho khách hàng khả năng nhận được mức thu nhập cao hơn từ tiền gửi, nhưng chỉ có công chúng mới làm cho các cơ hội đó trở thành hiện thực. Và công chúng đã làm việc đó. Hàng tỷ USD trước đây được gửi trong các tài khoản tiết kiệm thu nhập thấp và các tài khoản giao dịch không sinh lợi kiểu cũ đã được chuyển sang các tài khoản có mức thu nhập cao hơn, những tài khoản có tỷ lệ thu nhập thay đổi theo điều kiện thị trường. Ngân hàng đã phát hiện ra rằng họ đang phải đối mặt với những khách hàng có giáo dục hơn, nhạy cảm với lãi suất hơn. Các khoản tiền gửi “trung thành” của họ có thể dễ tăng cường khả năng cạnh tranh trên phương diện thu nhập trả cho công chúng gửi tiền và nhạy cảm hơn với ý thích thay đổi của xã hội về vấn đề phân phối các khoản tiết kiệm.

Cách mạng trong công nghệ ngân hàng

Đối mặt với chi phí hoạt động cao hơn, từ nhiều năm gần đây các ngân hàng đã và đang chuyển sang sử dụng hệ thống hoạt động tự động và điện tử thay thế cho hệ thống dựa trên lao động thủ công, đặc biệt là trong công việc nhận tiền gửi, thanh toán bù trừ và cấp tín dụng. Những ví dụ nổi bật nhất bao gồm các máy rút tiền tự động ATM, cho phép khách hàng truy nhập tài khoản tiền gửi của họ 24/24 giờ; Máy thanh toán tiền POS được lắp đặt ở các bách hóa và trung tâm bán hàng thay thế cho các phương tiện thanh toán hàng hóa dịch vụ bằng giấy; và hệ thống máy vi tính hiện đại xử lý hàng ngàn giao dịch một cách nhanh chóng trên toàn thế giới.

Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại

Định nghĩa tín dụng ngân hàng

  1. Khái niệm tín dụng ngân hàng

Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng phát sinh giữa các ngân hàng, các tổ chức tín dụng với các đối tác kinh tế - tài chính của toàn xã hội, bao gồm doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức xã hội, cơ quan nhà nước.

  1. Đặc điểm tín dụng ngân hàng
  • Huy động vốn và cho vay vốn đều thực hiện dưới hình thức tiền tệ;
  • Ngân hàng đóng vai trò trung gian trong quá trình huy động vốn và cho vay;
  • Quá trình vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng không hoàn toàn phù hợp với quy mô phát triển sản xuất và lưu thông hàng hóa;
  • Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tập trung và điều hòa vốn giữa các chủ thể trong nền kinh tế.

Phân loại tín dụng ngân hàng

Căn cứ vào thời hạn tín dụng

- Tín dụng ngắn hạn: là những khoản vay có thời hạn đến 1 năm, thường được sử dụng để cho vay bổ sung thiếu hụt tạm thời vốn lưu động và phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của cá nhân

- Tín dụng trung hạn: là những khoản vay có thời hạn trên 1 năm đến 5 năm; được cung cấp để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng các công trình nhỏ có thời gian thu hồi vốn nhanh.

- Tín dụng dài hạn: là những khoản vay có thời hạn trên 5 năm. Loại tín dụng này được sử dụng để cung cấp vốn cho xây dựng cơ bản, cải tiến và mở rộng sản xuất với quy mô lớn

Căn cứ vào đối tượng tín dụng

- Tín dụng vốn lưu động: được sử dụng để hình thành vốn lưu động của các tổ chức kinh tế như cho vay để dự trữ hàng hóa, mua nguyên vật liệu cho sản xuất…

- Tín dụng vốn cố định: được sử dụng để hình thành tài sản cố định.

Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn

  - Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hóa: là loại cấp phát tín dụng cho các

doanh nghiệp và các chủ thể kinh tế khác tiến hành sản xuất và lưu thông hàng hóa.

 - Tín dụng tiêu dùng: là hình thức cấp phát tín dụng cho cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng.

- Tín dụng học tập: là hình thức cấp phát tín dụng để phục vụ việc học tập của sinh viên.

Ngoài ra, căn cứ vào mục đích sử dụng vốn còn có thể có nhiều hình thức tín dụng khác.

Căn cứ vào đối tượng trả nợ

- Tín dụng trực tiếp: là hình thức tín dụng mà trong đó người đi vay cũng là người trực tiếp trả nợ.

- Tín dụng gián tiếp: là hình thức tín dụng mà trong đó người đi vay và người trả nợ là hai đối tượng khác nhau.

Căn cứ vào tính chất của khoản vay

- Tín dụng có đảm bảo: các khoản vốn tín dụng phát ra đều có hàng hóa, vật tư tài sản tương đương đảm bảo.

- Tín dụng không có đảm bảo: các khoản tín dụng phát ra không cần có hàng hóa, vật tư, tài sản đảm bảo mà chỉ dựa vào uy tín, sự tín nhiệm đối với các tổ chức, cá nhân để cấp vốn tín dụng.

Nguyên tắc và điều kiện cho vay trong tín dụng ngân hàng

1. Nguyên tắc cho vay

  • Nguyên tắc hoàn trả: khoản tín dụng phải được thanh toán đầy đủ nguyên gốc sau khi sử dụng để ngân hàng bảo toàn được vốn ở mức tối thiểu nhất để có thể duy trì được hoạt động.
  • Nguyên tắc thời hạn: khoản tín dụng phải được hoàn trả đúng vào thời điểm đã được hai bên xác định cụ thể và được ghi nhận trong thỏa thuận vay vốn giữa khách hàng và ngân hàng.
  • Nguyên tắc trả lãi: ngoài việc thanh toán đầy đủ, đúng hạn khoản gốc, khách hàng phải có trách nhiệm thanh toán khoản lãi tính bằng tỷ lệ % trên số tiền vay, được coi là giá mua quyền sử dụng vốn.
  • Nguyên tắc tài sản đảm bảo: để bảo vệ nguồn vốn của ngân hàng khi khách hàng vi phạm các điều kiện vay vốn hoặc khi chủ nhân của các tài sản thế chấp không còn khả năng thanh toán cho ngân hàng.
  • Nguyên tắc sử dụng vốn vay đúng mục đích: tất cả các khoản tín dụng phải được
  • sử dụng đúng mục đích vay thể hiện trong hồ sơ vay vốn.

2. Điều kiện cho vay

  • Khách hàng phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật.
  • Khách hàng phải có khả năng tài chính đảm bảo trả được nợ trong thời hạn cam kết.
  • Mục đích sử dụng vốn vay phải hợp pháp.
  • Có dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi; phương án đầu tư, phục vụ đời sống khả thi kèm phương án trả nợ khả thi và phù hợp với quy định của pháp luật.
  • Thực hiện đầy đủ các quy định về đảm bảo tiền vay theo quy định của Chính phủ, Thống đốc Ngân hàng Nhà Nước và hướng dẫn của MHB.

Vai trò của tín dụng ngân hàng với sự phát triển kinh tế

Tín dụng ngân hàng làm tăng hiệu quả kinh tế.

Các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh dựa trên vốn chủ sở hữu và vốn vay. Một trong những nguồn để vay là từ ngân hàng, đó là nguồn tài trợ hiệu quả bởi vì nó thoả mãn nhu cầu vốn về số lượng và thời hạn. Hơn nữa, để có thể vay vốn được từ ngân hàng thì các doanh nghiệp cần phải nâng cao uy tín của mình đối với ngân hàng, đảm bảo được các nguyên tắc tín dụng. Muốn vậy, trong các dự án kinh doanh của mình, doanh nghiệp phải chọ dự án có mức sinh lãi cao nhất. Để các dự án khả thi, doanh nghiệp phải tìm hiểu thị trường khai thác thông tin để định lượng hoạt động kinh doanh của mình sao cho có hiệu quả. Điều đó làm tăng hiệu quả kinh tế của dự án, phương án.

Mặt khác, một trong những quy định tín dụng của ngân hàng là khâu giám sát sử dụng vốn vay. Với việc giám sát này của ngân hàng, bắt buộc doanh nghiệp phải sử dụng vốn vay đúng mục đích, phải nhạy bén với những thay đổi của thị trường, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế. Bên cạnh đó, vai trò tư vấn của cán bộ tín dụng sẽ giúp cho doanh nghiệp lường trước được những khó khăn, vượt qua khó khăn để đứng vững, điều này cũng góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế.

Tín dụng ngân hàng góp phần vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn, làm tăng tốc độ chu chuyển tiền tệ trong nền kinh tế tạo cơ chế phân phối vốn một cách có hiệu quả.

Do đặc điểm tuần hoàn vốn nên trong quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp luôn có sự không ăn khớp về thời gian và khối lượng giữa lượng tiền cần thiết để dự trữ vật tư hàng hoá cho quá trình sản xuất kinh doanh trước đó. Vì vậy, luân chuyển tiền tệ của doanh nghiệp có lúc thừa, có lúc thiếu vốn. Nguồn vốn doanh nghiệp tạm thời nhàn rỗi cùng với các nguồn tiết kiệm từ dân cư, nguồn kết dư từ ngân sách… được ngân hàng thương mại huy động và sử dụng để đầu tư cho các doanh nghiệp đang tạm thời thiếu vốn, cho nhu cầu tiêu dùng tạm thời vượt quá thu nhập của dân chúng, cũng như cho nhu cầu chi của ngân sách nhà nước khi chưa có nguồn thu. Thông qua cơ chế sàng lọc, giám sát Ngân hàng thương mại sẽ chỉ cho vay các dự án có tính khả thi cao, khả năng thu hồi vốn lớn. Điều này tạo nên một cơ chế phân phối vốn hiệu quả.

Tín dụng ngân hàng góp phần hỗ trợ các chiến lược kinh tế và các chính sách tiền tệ.

Một trong những đặc điểm quan trọng của ngân hàng thương mại là khả năng tạo tiền thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán. Khi nhà nước muốn tăng khối lượng tiền cung ứng thì Ngân hàng nhà nước có thể tăng hạn mức tín dụng của các ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế và ngược lại. Do vậy thông qua hình thức tín dụng ngân hàng nhà nước có thể kiểm soát được khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông.

Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình mở rộng mối quan hệ giao lưu kinh tế quốc tế.

Trước xu thế quốc tế hoá, sự giao lưu kinh tế giữa các nước luôn được đặt ra. Trong nền kinh tế mở thì các doanh nghiệp không chỉ có quan hệ mua bán với các thành phần khác trong nền kinh tế mà còn có những quan hệ xuất nhập khẩu với các doanh nghiệp nước ngoài. Ngân hàng thương mại có thể thúc đẩy mối quan hệ này thông qua hình thức bảo lãnh, cho vay… đối với các doanh nghiệp để từ đó nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên trường quốc tế.

Các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại

Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động tín dụng của các NHTM bao gồm các yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan đến từ nội bộ ngân hàng hay từ môi trường bên ngoài như : môi trường kinh tế, môi trường pháp lý, môi trường cạnh tranh, hay đến từ khách hàng. Tuy nhiên trong phạm vi đề án chỉ phân tích các yếu tố chủ quan mà bản thân ngân hàng có thể kiểm soát được và có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại

  1. Quy trình tín dụng

 Là những trình tự, giai đoạn, các bước, công việc cần làm theo một thủ tục nhất  đinh trong việc cho vay, bắt đầu từ việc xét đơn xin vay của khách hàng đến khi  thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn tín dụng. Hiệu quả hoạt động tín dụng phụ thuộcvào việc lập ra quy trình tín dụng đảm bảo tính logic khoa học và thực hiện, phối  hợp nhịp nhàng giữa các bước trong quy trình. Quy trình bao gồm các bước:

Bước 1: Lập hồ sơ vay vốn

Bước này do cán bộ tín dụng thực hiện ngay sau khi tiếp xúc khách hàng. Nhìn chung một bộ hồ sơ vay vốn cần phải thu thập các thông tin như:

  • năng lực pháp lý, năng lực hành vi dân sự của khách hàng
  • khả năng sử dụng vốn vay
  • khả năng hoàn trả nợ vay (vốn vay + lãi)

Bước 2: Phân tích tín dụng

Phân tích tín dụng là xác định khả năng hiện tại và tương lại của khách hàng trong việc sử dụng vốn vay + hoàn trả nợ vay.

Mục tiêu:

  • Tìm kiếm những tình huống có thể xảy ra dẫn đến rủi ro cho ngân hàng, dự đoán khả năng khắc phục những rủi ro đó, dự kiến những biện pháp giảm thiểu rủi ro và hạn chế tổn thất cho ngân hàng.
  • Phân tích tính chân thật của những thông tin đã thu thập được từ phía khách hàng trong bước 1, từ đó nhận xét thái độ, thiện chí của khách hàng làm cơ sở cho việc ra quyết định cho vay.

Bước 3: Ra quyết định tín dụng

Trong khâu này, ngân hàng sẽ ra quyết định đồng ý hoặc từ chối cho vay đối với một hồ sơ vay vốn của khách hàng.

Khi ra quyết định, thường mắc 2 sai lầm cơ bản:

  • Đồng ý cho vay với một khách hàng không tốt
  • Từ chối cho vay với một khách hàng tôt.

Cả 2 sai lầm đều ảnh hưởng đến hoạt đông kinh doanh tín dụng, thậm chí sai lầm thứ 2 còn ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng.

Bước 4: Giải ngân

Ở bước này, ngân hàng sẽ tiến hành phát tiền cho khách hàng theo hạn mức tín dụng đã ký kết trong hợp đồng tín dụng.

Nguyên tắc giải ngân: phải gắn liền sự vận động tiền tệ với sự vận động hàng hóa hoặc dịch vụ có liên quan, nhằm kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng và đảm bảo khả năng thu nợ. Nhưng đồng thời cũng phải tạo sự thuận lợi, tránh gây phiền hà cho công việc sản xuất kinh doanh của khách hàng.

Bước 5: Giám sát tín dụng

Nhân viên tín dụng thường xuyên kiểm tra việc sử dụng vốn vay thực tế của khách hàng, hiện trạng tài sản đảm bảo, tình hình tài chính của khách hàng,... để đảm bảo khả năng thu nợ.

Bước 6: Thanh lý hợp đồng tín dụng

  1. Phương thức tín dụng

Nhìn chung các phương thức cấp tín dụng của NHTM có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của doanh nghiệp. Các ngân hàng mạnh không chỉ thể hiện ở chỗ cung ứng một khối lượng tín dụng to lớn cho thị trường mà là ở chỗ cấp tín dụng như thế nào. Ở Việt Nam các phương thức cho vay còn quánghèo nàn, hầu như chỉ bán ra những gì mà ngân hàng có chứ không thật quantâm đến cái mà khách hàng cần, do đó kém sức hấp dẫn và khó mở rộng tíndụng. Trong Quyết định số 324/1998/QĐ-NHNN1 ngày 30/9/1998 của Thốngđốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc "Ban hành quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng" có quy định về một số phương thức chovay của các tổ chức tín dụng. Nó quy định tổ chức tín dụng thoả thuận với kháchhàng về phương thức cho vay phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn vay và khả năngkiểm tra, giám sát việc khách hàng sử dụng vốn vay theo một trong các phương thức cho vay sau:

Cho vay từng lần: Mỗi lần vay vốn khách hàng và tổ chức tín dụng làm thủtục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng.

Cho vay theo hạn mức tín dụng: Tổ chức tín dụng và khách hàng xác định vàthoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong thời hạn nhất định hoặc theo chukỳ sản xuất, kinh doanh.

Cho vay theo dự án đầu tư: Tổ chức tín dụng cho khách hàng vay vốn để thựchiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án phụcvụ đời sống.

Cho vay hợp vốn: Một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một dự ánvay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng; trong đó, có một tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng khác. Việc cho vayhợp vốn thực hiện theo quy định của quy chế này và quy chế đồng tài trợ của cáctổ chức tín dụng do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành.

Cho vay trả góp: Khi vay vốn, tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thoả thuận số lãi tiền vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay, tài sản mua bằng vốn vay chỉ thuộc sở hữu của bên vay khi trả đủ nợ gốc và lãi.

Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Tổ chức tín dụng cam kết đảm bảosẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự phòng, mức phí trả cho hạn mức tín dụng dự phòng.

Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Tổ chức tíndụng chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của tổ chức tín dụng. Khi cho vay phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, tổ chức tín dụng và khách hàng phải tuân theo các quy định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước về phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.

Các phương thức cho vay khác phù hợp với quy định của Quy chế này và các quy định khác của Ngân hàng Nhà nước.

Tuy nhiên Quyết định 324 còn quy định khá chung chung, và đối với các NHTM việc áp dụng cụ thể như thế nào lại thuộc quyền hướng dẫn của mỗi ngân hàng, và tất nhiên có bao nhiêu ngân hàng sẽ có bấy nhiêu văn bản pháp lý khácnhau quy định cụ thể về các phương thức cho vay. Nhưng có những điều mà các NHTM lại không thích quy định cụ thể rõ ràng trong văn bản vì nếu thế sẽ bị mắc trong quá trình thực hiện hoặc sẽ không có chỗ "lùi" khi mà quy định của ngân hàng mình lại "chặt" hơn ngân hàng bạn do đó giảm khả năng cạnh tranh. Vì vậy qua thực tiễn hoạt động thì Ngân hàng Nhà nước nên sửa đổi quy định về phương thức cho vay theo hướng cụ thể hoá để thống nhất phương thức cho vay trong các tổ chức tín dụng là một vấn đề cấp thiết, không để tình trạng tự quyđịnh dẫn đến sự sai lệch về phương thức cho vay và quản lý vốn vay như hiện nay.

  1. Lãi suất tín dụng

Lãi suất chính là giá của quyền được sử dụng vốn mà người sử dụng phải trả cho người sở hữu nó trong một thời gian nhất định. Cái giá đó sẽ quyết định việc khách hàng có vay hay không, do vậy nó ảnh hưởng đến khả năng tín dụng ngân hàng. Để sử dụng có hiệu quả công cụ lãi suất trong phát triển tín dụng ta cần xem xét vấn đề sau:

  1. Nguyên tắc xác định lãi suất

Như đã nói, lãi suất tín dụng chính là giá cả của tín dụng, là tỷ lệ % tính theo một thời hạn xác định ( ngày, tuần, tháng, quý, năm... ) dùng làm căn cứ để tính toán số lợi tức tín dụng mà các chủ thể tín dụng phải trả ( đối với chủ thể đi vay ) hoặc nhận được ( đối với chủ thể cho vay ) để điều hoà lợi ích của các chủ thể tham gia quan hệ tín dụng. Do vậy, việc xác định lãi suất tín dụng sao cho hợp lý là một vấn đề vô cùng quan trọng sao cho đảm bảo được lợi ích giữa các chủ thể trong quan hệ tín dụng.

Trước hết, lãi suất tín dụng phải đảm bảo một phần thu nhập hợp lý cho người gửi tiền vào ngân hàng. Do vậy trong thực tế, lãi suất thực tế phải lớn hơn hoặc bằng tỷ lệ lạm phát tức là:

Lãi suất thực tế = tỷ lệ lạm phát + tỷ lệ khuyến khích người gửi tiền.

Mặt khác, lãi suất tín dụng phải đảm bảo một phần thu nhập hợp lý cho các tổ chức tín dụng (TCTD ) và NHTM tức là:

Lãi suất = Lãi suất + Các chi phí hợp lý + Bù đắp rủi ro + tỷ lệ thu nhập cho vay tiền gửi trong hoạt động trong hoạt động hợp lý tín dụng ngân hàng

Đồng thời, lãi suất cho vay của ngân hàng phải đảm bảo phát triển nền kinh tế tức là phải đảm bảo cho những người vay vốn ngân hàng có thu nhập hợp lý, nghĩa là:

Lãi suất cho vay < Tỷ lệ lợi nhuận bình quân của nền kinh tế.

Do vậy, có thể khẳng định rằng giới hạn tối đa của lãi suất tín dụng ngân hàng nói chung là tỷ suất lợi nhuận bình quân, còn giới han thấp nhất của lãi suất là chỉ số lạm phát vì nó sẽ làm cho người gửi tiền bảo toàn được vốn.

Tóm lại, để lãi suất tín dụng trở thành đòn bẩy kích thích và mở rộng các quan hệ tín dụng trong nền kinh tế thì phải đảm bảo lãi suất tín dụng được kiểm soát trong khung giới hạn sau đây:

Tỷ lệ lạm phát ≤ lãi suất tín dụng ≤ tỷ suất lợi nhuận bình quân.

Nếu vượt quá giới hạn trên, lãi suất tín dụng sẽ gây ra tác động tiêu cực đối với nền kinh tế xã hội, hệ thống ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng bất ổn, rối loạn.

  1. Phân loại lãi suất

Phân loại lãi suất dựa vào cách phân loại các hoạt động tín dụng

Theo thời gian thì có lãi suất ngắn hạn, trung hạn và dài hạn

Đây là cách phân loại lãi suất theo độ dài thời gian mà ngân hàng cho các tác nhân và thể nhân khác trong nền kinh tế vay. Cơ sở của cách phân loại này là thời gian cho vay càng dài thì rủi ro mất vốn càng cao nên lãi suất cũng phải tăng theo. Do vậy, lãi suất cho vay dài hạn cao hơn lãi suất cho vay trunghạn, lãi suất cho vay trung hạn cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn. Tuy nhiên trên thực tế nó còn phụ thuộc vào các mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội trong từng thời kỳ của mỗi quốc gia. Chính phủ dùng công cụ lãi suất để điều chỉnh cơ cấu sản xuất xã hội hay chống khủng hoảng khôi phục nền kinh tế sau chiến tranh chẳng hạn, khi đó cần vốn cho xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng cơ bản, kiến thiết nền sản xuất... do đó lãi suất trung, dài hạn có khi lại thấphơn so với ngắn hạn.

Xét theo tính chất của các ngành nghề kinh doanh thì có lãi suất cho vvay kinh doanh, lãi suất cho vay tiêu dùng, lãi suất cho vay chăn nuôi, lãi suất cho vay bất động sản

Lãi suất cho vay kinh doanh là lãi suất áp dụng cho các loại hoạt độngkinh doanh, về mặt lý thuyết thì lãi suất này thường là thấp nhất trong số các loại lãi suất cho vay của NHTM vì thời hạn thu hồi vốn nhanh.

Lãi suất cho vay nông nghiệp: thường thì nó cao hơn lãi suất sản xuất kinhdoanh vì nó có rủi ro khách quan lớn (do biến động của khí hậu, thời tiết, điềukiện tự nhiên, sâu bọ, bệnh tật mà con người không kiểm soát được)và quy môsản xuất lại nhỏ hơn, và thời gian thu hồi vốn lâu hơn (do tính thời vụ trong nông nghiệp).

Lãi suất cho vay tiêu dùng: thường cao hơn các lãi suất cho khoản vaykhác vì nó có quy mô nhỏ, rủi ro nhiều và khả năng trả nợ thấp.

Lãi suất cho vay bất động sản: lãi suất tương đối cao do bị ảnh hưởng bởi kỳ hạn vay, tỷ lệ cho vay, nhu cầu về thanh khoản và tính chất đảm bảo hay bảo hiểm bởi một cơ quan khác.

Ngoài ra còn các hình thức lãi suất phụ thuộc vào chính sách tín dụng của nhànước như: lãi suất thông thường, lãi suất ưu đãi, lãi suất quá hạn, lãi suất co dãnhoặc lãi suất cứng.

  1. Các yếu tố ảnh hưởng tới lãi suất

- Điều kiện thị trường tiền tệ: nếu như ngân hàng phụ thuộc và khoản vốn huy động dưới dạng các chứng chỉ tiền gửi mệnh giá lớn hoặc tiền vay Chính phủ thì giá vốn huy động nó sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi các điều kiện của thị trường tiền tệ, hơn nữa thị trường tiền tệ lại quyết định sức hấp dẫn của các dự án đầu tư, do đó nó ảnh hưởng đến lãi suất cho vay.

- Rủi ro: cho vay là một hoạt động luôn mang tính rủi ro, và lãi suất sẽ thay đổi theo mức độ rủi ro. Món vay có khả năng rủi ro càng cao, thì yêu cầu lãi suất càng lớn và ngược lại.

- Lãi suất cố định và lãi suất có thể điều chỉnh: một món vay không bị điều chỉnh lãi suất trong một thời gian càng dài thì rủi ro do những biến động trong tương lai của điều kiện thị trường tiền tệ càng lớn nên lãi suất cho vay yêu cầu càng cao. Mặc dù hệ thống lãi suất thả nổi hay có thể điều chỉnh là kém hấp dẫn theo quan điểm của một số doanh nghiệp, hay có thể tạo ra một số vấn đề về quản lý và tính toán đối với ngân hàng, nhưng chắc chắn nó thể hiện là cách tính lãi suất tốt nhất cho cả ngân hàng và doanh nghiệp.

- Các chi phí hoạt động và quản lý: Để ngân hàng tồn tại và phát triển, ngân hàng phải bỏ ra các chi phí tiền lương, tiền thuê và các phương tiện... Do đó ngânhàng phải đạt được mức lợi tức đủ để trang trải các chi phí này và cần phải có lợi nhuận, tăng tích luỹ... vì vậy nó cũng ảnh hưởng đến việc xác định lãi suất.

- Thời hạn hoàn trả: do trong thời gian dài sẽ có rất nhiều biến động trong tình hình tài chính của doanh nghiệp, hay giá trị của tài sản bảo đảm sẽ giảm sút, do đó rủi ro càng lớn yêu cầu lãi suất càng cao và ngược lại, thời hạn ngắn hơn thì lãi suất sẽ thấp hơn.

- Cạnh tranh: trong nền kinh tế thị trường thì cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng gay gắt, để có thể cạnh tranh mỗi ngân hàng phải đưa ra mức lãi suất hợp lýđể vừa đảm bảo thu hút khách hàng vừa đảm bảo lợi nhuận tối ưu.

- Ngoài ra còn một số nhân tố khác như: các chính sách của Nhà nước (chínhsách tiền tệ, chính sách tín dụng, chính sách lãi suất...); sự ổn định của nền kinh tế, lạm phát; tỷ suất lợi nhuận bình quân...

Hiện nay ở Việt Nam sau khi Nhà nước chuyển sang điều hành theo lãi suất cơ bản từ 2/8/2000 thì các NHTM có thể chủ động linh hoạt thay đổi lãi suất cho phù hợp với mỗi trường hợp cụ thể, vì vậy đã dẫn đến hiện tượng cạnh tranh lãi suất làm lãi suất hạ rất thấp gây ra nhiều hiện tượng tiêu cực như "phá giá" lãi suất, gây áp lực cho các ngân hàng nhỏ, đồng thời môi trường hoạt động khó khăn...Vì vậy các NHTM muốn cạnh tranh thì cũng cần phải quan tâm đến các loại hình cho vay và các yếu tố ảnh hưởng đến lãi suất để có thể đưa ra những khung lãi suất các loại một cách đúng đắn sao cho đảm bảo được hiệu quả tín dụng, mở rộng tín dụng phải có lợi nhuận, đặc biệt quan tâm đến sự phát triển chung của nền kinh tế.

  1. Chính sách tín dụng

Chính sách tín dụng là tổng thể các quy định của ngân hàng về hoạt động tín dụng nhằm đưa ra định hướng và hướng dẫn hoạt động của cán bộ ngân hàng trong việc cấp tín dụng cho khách hàng. Tổng thể các quy định này bao gồm toàn bộ các vấn đề liên quan đến cấp tín dụng như: Quy mô, lãi suất, kỳ hạn, đảm bảo, phạm vi, các khoản tín dụng có vấn đề và các nội dung khác…

Chính sách tín dụng là hệ thống các chủ trương, định hướng quy định chi phối hoạt động tín dụng do HĐQT của ngân hàng đưa ra nhằm sử dụng hiệu quả nguồn vốn để tài trợ cho các doanh nghiệp, các tổ chức, các hộ gia đình và cá nhân trong phạm vi cho phép của những quy định của chính phủ. Mục đích của chính sách tín dụng:

- Chính sách tín dụng xác định những giới hạn áp dụng cho các hoạt động tín dụng. Đồng thời cũng thiết lập môi trường nhằm giảm bớt rủi ro trong hoạt động tín dụng.

- Chính sách tín dụng được đưa ra nhằm bảo đảm rằng mỗi quyết định tín dụng (quyết định tài trợ vốn) đều khách quan, tuân thủ quy định của NHNN và phù hợp thông lệ chung của quốc tế. Không một tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào quyền tự chủ trong quá trình cho vay và thu hồi nợ của ngân hàng. Chính sách tín dụng xác định:

+ Các đối tượng có thể vay vốn.

+ Phương thức quản lí các hoạt động tín dụng.

+ Những ràng buộc về tài chính.

+ Các loại sản phẩm tín dụng khác nhau do ngân hàng cung cấp.

+  Phương thức quản lí các danh mục cho vay.

+ Thời hạn và các điều kiện áp dụng cho các sản phẩm tín dụng khác nhau.

Chính sách tín dụng là bộ phận quan trọng cấu thành hệ thống quản trị, điều hành hoạt động tín dụng của mỗi Ngân hàng, được thể hiện bằng các định hướng, tư tưởng chỉ đạo, cho đến các quy chế, quy trình cấp tín dụng, quản lý khoản tín dụng, danh mục tín dụng, phân cấp thẩm quyền...  chính vì thế nó có vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động của từng Ngân hàng.

Mặt khác, chính sách định hướng tín dụng của 1 ngân hàng cần có những định hướng cụ thể, đổi mới phù hợp với mục tiêu đặt ra trong từng chu kì kinh doanh của 1 ngân hàng nhằm đem lại hiệu quả cao nhất về kinh tế. Khi ngân hàng gặp thời kì khó khăn cũng là do chính sách tín dụng chưa hiệu quả hoặc do người thực thi chính sách không lường trước được hết những biến động tiêu cực của các yếu tố bên ngoài.

  1. Rủi ro tín dụng

Một trong những hoạt động chính của ngân hàng thương mại là hoạt động cho vay nên rủi ro tín dụng là một nhân tố hết sức quan trọng, đòi hỏi các ngân hàng phải có khả năng phân tích, đánh giá và quản lý rủi ro hiệu quả vì nếu ngân hàng chấp nhận nhiều khoản cho vay có rủi ro tín dụng cao thì ngân hàng có khả năng phải đối mặt với tình trạng thiếu vốn hay tính thanh khoản thấp. Điều này có thể làm giảm hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận của ngân hàng, thậm chí phá sản. Vì thế bộ phận quản lý tín dụng và quản trị rủi ro là hai bộ phận không thể thiếu trong cơ cấu tổ chức của bất kỳ ngân hàng thương mại nào.

  1. Nguyên nhân dẫn tới rủi ro tín dụng

Có nhiều nguyên nhân dẫn tới rủi ro tín dụng. Ta có thể chia các nguyên nhân thành ba nhóm: nhóm nguyên nhân thuộc về ngân hàng, nhóm nguyên nhân thuộc về khách hàng và nhóm các nguyên ngân khác.

Nguyên nhân thuộc về ngân hàng:

Thứ nhất: Sự yếu kém của đội ngũ cán bộ. Sự yếu kém ở đây bao gồm cả về năng lực và phẩm chất đạo đức. Nếu một cán bộ tín dụng non kém về trình độ, thiếu kiến thức, thiếu kinh nghiệm thì sẽ không có khả năng thẩm định và xử lý thông tin, đánh giá khách hàng thiếu chính xác, mức vay,lãi suất vay và kỳ hạn không phù hợp; dẫn đến chất lượng tín dụng thấp, rủi ro cao. Ngoài ra, nếu cán bộ tín dụng không tuân thủ theo đúng quy trình tín dụng như giải ngân trước khi hoàn thành chứng từ hay không kiểm tra giám sát việc sử dụng vốn của người vay, thì việc mất vốn rất dễ xảy ra. Hơn nữa, cán bộ tín dụng mà phẩm chất đạo đức kém, không có tinh thần trách nhiệm, dễ bị cám dỗ thì sẽ gây thiệt hại rất lớn cho ngân hàng bằng cách cho vay chỉ dựa trên mối quan hệ với khách hàng, dựa trên lợi ích cá nhân mà bỏ qua những điều kiện và thủ tục cần thiết.

Thứ hai: Sự giám sát của các cấp quản lý trong ngân hàng là thiếu sát sao. Cán bộ tín dụng cần có sự phê duyệt của lãnh đạo trước khi giải ngân. Vậy nên nếu cấp trên không có sự kiểm tra, đánh giá xem quyết định của cán bộ đã thực sự chính xác chưa thì nguy cơ rủi ro tín dụng sẽ là rất cao. Hơn nữa, sau khi giải ngân rồi, cán bộ tín dụng vẫn phải tiếp tục theo dõi khách hàng để sớm phát hiện ra dấu hiệu của những khoản nợ có vấn đề. Tuy nhiên, việc theo dõi này đối với nhiều cán bộ chỉ mang tính hình thức. Do vậy, nếu các cấp quản lý không có sự giám sát đối với cán bộ tín dụng, hoạt động của các cán bộ tín dụng sẽ không hiệu quả, thậm chí dẫn đến những sai phạm đạo đức trong cho vay và thu nợ. Ngoài ra, các cơ quan cấp trên không quan tâm đến thực trạng tín dụng của ngân hàng thì sẽ không có những chỉ đạo kịp thời để ngăn ngừa và xử lý rủi  ro xảy ra.

 Thứ ba: Ngân hàng chưa đa dạng hoá các danh môc đầu tư. Một công cụ luôn được nhắc đến trong quản trị tín dụng ở tất cả các ngân hàng trên thế giới là quản trị danh môc đầu tư. Quản trị danh môc làm cân đối và kiềm chế rủi ro bằng cách nhận dạng, dự báo và kiểm soát mức độ rủi ro với từng thị trường, khách hàng, loại sản phẩm tín dụng và điều kiện hoạt động khác nhau. Nhiều chuyên gia ngân hàng tin rằng đa dạng hoá là giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng hữu hiệu nhất. Mặc dù hiểu rõ tầm quan trọng của việc đa dạng hoá danh môc đầu tư, song rất nhiều ngân hàng chỉ cho vay một hoặc hai ngành hoặc chỉ cho vay một vài doanh nghiệp lớn, nhóm kinh doanh đơn lẻ. Một danh môc đầu tư phụ thuộc chủ yếu vào một ngành hay một loại mặt hàng là rất nguy hiểm vì không ngành nào là không có rủi ro.

Thứ tư: Định giá khoản vay không theo mức độ rủi ro của khách hàng. Về cơ cấu, lãi suất cho một khoản vay phải được xác định ở mức đảm bảo bù đắp được chi phí vốn đầu vào, chi phí quản lý, phần lợi nhuận mong muốn và phần bù đắp rủi ro của khoản vay. Khách hàng được đánh giá có mức độ rủi ro càng cao, phần bù rủi ro càng lớn. Nhưng vì cạnh tranh nên một số ngân hàng có thể chấp nhận mức giá cho vay thấp, thậm chí chỉ đủ chi phí vốn đầu vào và chi phí quản lý, không tính đến phần bù rủi ro. Việc làm đó trong dài hạn không những làm giảm lợi nhuận  mà còn làm tăng tính rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.

Nguyên nhân thuộc về người vay:

Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến rủi ro tín dụng, có thể chia nhóm này thành hai loại chính:

Thứ nhất: Do khách hàng kinh doanh thua lỗ nên mất khả năng trả nợ. Trường hợp này rất phổ biến do khách hàng có trình độ yếu kém trong dự đoán các vấn đề kinh tế, yếu kém trong năng lực quản lý, sử dụng vốn sai môc đích, sản phẩm chất lượng thấp không bán được… Hơn nữa có rất nhiều người vay sẵn sàng lao vào những cơ hội kinh doanh mạo hiểm với kỳ vọng thu được lợi nhuận cao, mà không tính toán kỹ hoặc không có khả năng tính toán những bất trắc có thể xảy ra nên khả năng xảy ra tổn thất với ngân hàng là rất lớn.

Thứ hai: Do khách hàng cố tình chiếm dụng vốn của ngân hàng. Để đạt được môc đích thu được lợi nhuận, nhiều khách hàng sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn để ứng phó với ngân hàng như mua chuộc hoặc cung cấp các báo cáo tài chính sai lệch. Trong trường hợp này, nếu không phát hiện ra, ngân hàng sẽ đánh giá sai về khả năng tài chính của khách và cho vay vốn với khối lượng và thời hạn không hợp lý, dẫn đến rủi ro tiềm ẩn là rất cao. Ngoài ra, cũng có những trường hợp người kinh doanh có lãi song vẫn không trả nợ cho ngân hàng đúng hạn mà cố tình kéo dài với ý định không trả nợ hoặc tiếp tục sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt.

Nguyên nhân

0