21/02/2018, 09:56

Phân tích hình tượng người nghĩa sĩ nông dân trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc – văn 11

Đề bài: Phân tích hình tượng người nghĩa sĩ nông dân trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc Bài làm Hình tượng người nông dân chất phác, lam lũ không phải là xa lạ trong các tác phẩm văn học của nước ta từ trước đến nay. Nhưng có lẽ phải đến tác phẩm “ Văn tế nghĩa sĩ ...

Đề bài: Phân tích hình tượng người nghĩa sĩ nông dân trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

Bài làm

Hình tượng người nông dân chất phác, lam lũ không phải là xa lạ trong các tác phẩm văn học của nước ta từ trước đến nay. Nhưng có lẽ phải đến tác phẩm “ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” thì chúng ta mới lần đầu tiên được thấy một hình tượng người nông đẹp, chân thực, vô cùng bi tráng hào hùng nhưng cũng không thiếu sự đau thương… khi họ lột xác trở thành những anh hung vô danh nằm xuống trong cuộc chiến bảo vệ quê hương đất nước.

Họ vốn chỉ là những người dân chân lấm tay bùn, quanh năm với ruộng, lam lũ trong màu áo nâu… Vậy mà “Hỡi ôi, sung giặc đất rền, lòng dân trời tỏ” hằng ngày chỉ lo toan chuyện nhỏ, nhưng khi tiếng sung nổ ngang, vua quan chẳng thấy, thì chính những người nông dân nghèo khổ đó lại chính là người đứng ra lo toan chuyện nước. “Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm” nhưng khi “ trông chờ tin quan như trời hạn trông mưa” mà lại thấy cảnh “ bong bong che trắng lốp”,”ống khói chạy đen xì” mà tin quan thì vẫn mịt mờ, thì lúc đó họ không thể dứng nhìn được nữa. Lòng yêu nước không của riêng ai, chính vì “khi mùi tanh vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ” họ đã đứng lên sẵn sàng xả thân vì nghĩa cả. Đây cũng chính là vẻ đẹp đầu tiên mà Nguyễn Đình Chiểu đã dùng ngòi bút và tâm hồn áng như sao tô điểm cho hình tượng người nông dân trong tác phẩm: Tinh thần tự nguyện đánh giặc.Và vẻ đẹp thứ hai tỏa áng rực rỡ từ trong điều đầu tiên: Tinh thần dũng cảm! Dù biết trước là hi sinh nhưng có ai lùi bước? Họ không hề nao núng, không chút sợ hãi mà sẵn sàng dâng hiến cả sinh mạng cho đất nước. Tinh thần quyết chiến ấy đẹp biết bao nhiêu, cao cả biết bao nhiêu khi họ chỉ là những nông dân lam lũ, nghèo khổ nơi xóm ấp, tự ghép mình vào đội ngũ để xông ra chiến trường đánh giặc: Vốn chẳng phải quân cơ quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh; chẳng qua là dân ấp dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ. Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn; chín chục trận binh thư, không chờ bày bố. Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi; trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gõ. Có nghĩa là người nông dân từ mái tranh nghèo xông thẳng ra chiến trường mà không hề được luyện tập mảy may. Tinh thần sẵn sàng ấy lại càng thêm lớn lao và đáng khâm phục khi ta nhìn vào vũ khí trong tay họ.Trang bị lớn nhất, đầy đủ nhất của họ chính là nhiệt thành yêu nước và tinh thần trượng nghĩa đặc biệt của người dân Nam Bộ; chứ rơm con cúi, lưỡi dao phay, ngọn tầm vông… toàn những vật dụng vơ vội ở xó bếp, góc vườn mà đem đối chọi với vũ khí hiện đại của quân thù thì cái sắc bén, cái sức giết giặc của nó chỉ là ở trái tim, ở dũng khí của người nghĩa sĩ. Chao ôi vẻ đẹp của họ ở đây thật hào hùng, nhưng bên cạnh sự hào hùng là nỗi đau, nỗi thương đến rơi nước mắt!

Chúng ta hãy đọc kĩ những dòng nhà thơ Nguyễn Đinh Chiểu miêu tả người nghĩa sĩ nông dân vào trận. Bao nhiêu lời văn là bấy nhiêu chất hùng ca hừng hực khí phách, rực lửa chiến đấu của một trận đánh oanh liệt và dữ dội: Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ. Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tậu sắt tàu đồng súng nổ. Vẻ đẹp thứ ba này quả là tuyệt vời! Người nghĩa sĩ nông dân cực nhọc, nghèo khó, hèn mọn đã hiện lên thành một hình tượng anh hùng kì vĩ, lồng lộng giữa chiến trường. Hình tượng lớn lao, mãnh liệt ấy làm chủ trận chiến, áp đảo tất cả. Lưỡi dao phay, ngọn tầm vông của họ đâm ngang, chém ngược, tung hoành, hiên ngang nơi trận địa, khiến quân giặc hồn kinh phách lạc. Tiếng thét căm thù vang trời của họ át cả tiếng tàu thiếc tàu đồng súng nổ. Sức mạnh diệu kì của lòng yêu nước đã biến những vũ khí thô sơ thành sắc bén và lợi hại không ngờ. “Rơm con cúi, lưỡi dao phay cũng đốt xong nhà dạy đạo, cũng chém rớt đầu quan hai giặc”. Trong một đoạn văn mà tác giả sử dụng rất nhiều động từ, cụm động từ miêu tả hành động mãnh liệt, hào khí bừng bừng của nghĩa sĩ. Trước khí thế dũng mãnh ấy, quân giặc hung dữ với súng lớn, tàu thiếc tàu đồng phải hoảng sợ, kinh hoàng và trở nên nhỏ bé đến thảm hại.

Cảm xúc chủ đạo của bài Văn tế là cảm xúc bi tráng. Lời văn rắn rỏi, nhịp điệu mạnh mẽ, sục sôi, dồn dập, âm hưởng hào hùng. Nghệ thuật đối đã phát huy tối đa hiệu quả của nó… Tất cả hợp thành một thiên anh hùng ca hào hùng, phấn khích, tuyệt diệu, có giá trị muôn đời. Ngòi bút tả thực sắc sảo của tác giả hoàn toàn xứng đáng với hành động vì nước quên thân, với tư tưởng yêu nước cực kì lớn lao trong hành động tự nguyện đứng lên giết giặc cứu nước, bảo vệ giang sơn tổ tiên để lại của các nghĩa sĩ nông dân. Gần ba chục nghĩa sĩ hi sinh trong cuộc chiến đấu ác liệt và không cân sức. Cái chết bi tráng của họ khiến cho trời đất, con người, cây cỏ thảy đều thương tiếc. Lòng yêu thương và cảm phục đã khiến Nguyễn Đình Chiếu ghi tạc vào thơ văn mình hình tượng người nghĩa sĩ cần Giuộc thật bi tráng. Hình tượng ấy mang sức nặng của một thời đại “nước mắt anh hùng lau chẳng ráo” và tấm lòng yêu thương bi thiết của nhà thơ mù đất Đồng Nai – Gia Định. Những người anh hùng “sống đánh giặc – thác cũng đánh giặc”. Còn nhà thơ của họ đã dựng lại tượng đài ấy “nghìn năm” trong kí ức tâm hồn cùa người đời bằng văn chương

Nguồn: Văn mẫu hay

0