Phân tích hình ảnh các dân tộc bị áp bức trong Bản án chế độ thực dân Pháp.
Phong trào giải phóng dân tộc “đánh dấu một giai đoạn mới trong lịch sử thế giới vào đầu thế kỉ XX”. Đặc biệt, chiến tranh đế quốc 1914 - 1918 và Hòa ước Véc-xai đáng sỉ nhục làm cho các dân tộc và các giai cấp bị áp bức trên toàn thế giới nhận định được rõ thêm bản chất của chủ nghĩa tư bản. Các ...
Phong trào giải phóng dân tộc “đánh dấu một giai đoạn mới trong lịch sử thế giới vào đầu thế kỉ XX”. Đặc biệt, chiến tranh đế quốc 1914 - 1918 và Hòa ước Véc-xai đáng sỉ nhục làm cho các dân tộc và các giai cấp bị áp bức trên toàn thế giới nhận định được rõ thêm bản chất của chủ nghĩa tư bản. Các nước đồng minh “chiến thắng”, một mặt tăng cường bóc lột giai cấp công nhân châu Âu, châu Mĩ, một mặt ra sức khai thác tàn nhẫn thuộc địa. Cách mạng tháng Mười chỉ ra con đường đấu tranh của ...
Trái tim ấy hiểu thấu và thương cảm sâu xa hàng trăm triệu người sống cuộc đời lầm than, khổ nhục. Trái tim ấy càng thấy rõ cái “hùng vĩ” của những người nô lệ, những người có tâm hồn trong sáng, thủy chung, kiên cường - những người có đầy đủ chí khí để làm cách mạng. “Và muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”.
Hiểu rõ giai cấp công nhân, Bác Hồ biết tất cả nỗi khố cực và sức mạnh của họ, những người duy nhất có khả năng lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc. Xuất thân từ một gia đình yêu nước, Bác thông cảm sâu sắc với nông dân. Hình ảnh người nông dân thuộc địa chiếm vai trò lớn trong tác phẩm Bản án... (...) Đề bạt người nông dân như một người bạn chiến đấu dũng cảm của giai cấp công nhân, đó là một sáng tạo trong văn học lúc bấy giờ. Qua hình tượng người nông dân trong tác phẩm, Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ rằng vấn đề thuộc địa thực chât là vấn đề nông dân.
Nói đến họ, lời văn Bản án...bao giờ cũng đầm ấm, thiết tha, Bác hiểu tấm lòng yêu quê hương đất nước của họ. Đàn cừu, mảnh vườn đối với họ là những gì thân thiết nhất: “Họ phải đột ngột xa lìa vợ con, rời bỏ mảnh ruộng hoặc đàn cừu của họ, để vượt đại dương, đi phơi thây trên các bãi chiến trường châu Âu”. Dù có sống sót, họ cũng chỉ lê “tấm thân tàn ma dại” trở về sống kiếp trâu ngựa dưới cái chế độ “không hề biết gì đến công lí và chính nghĩa”. Bọn thực dân kết án tử hình những người vô tội. Tiếng oán hờn thống thiết như thúc giục mọi người hãy thấm máu trên người, đứng dậy làm cách mạng, đánh đuổi bọn thực dân. Chương Những nỗi khổ nhục của người đàn bà bản xứ chứa chan tình thương cảm xót xa của Bác.
Không phải Bác chỉ thấy ở nhân dân lao động thuộc địa cuộc đời đầy oan khốc, Bác còn thấy họ là những người khảng khái, thương nước yêu nhà, và dũng cảm phản kháng cái chế độ thuộc địa bất lương ấy. Những người phụ nữ có chồng con, cha anh bị giam cầm, đã vượt mọi gian nguy đến thăm họ: “Tất cả cái đám người đã kiệt sức ấy mang theo đủ mọi thứ, nào nón, nào quần áo rách, cơm nắm... để lên đưa cho người bị can, là cha, là chồng”. Đó là những người nông dân “nổi lên chống tạp dịch”, là những người Lào bỏ nhà bỏ cửa trốn đi, không chịu đi phu cho giặc, là “những vụ biến động lừng danh năm 1908 và năm 1916” ở Việt Nam. Đặc biệt, trong chương XII, Nô lệ thức tỉnh, tác giả đã kết thúc tác phẩm bằng hình ảnh đầy hứa hẹn của Trường Đại học Phương Đông, trên đất nước Liên Xô, một “dấu hiệu của kỉ nguyên mới” của các dân tộc bị áp bức.
Tóm lại, với Bản án... của Nguyễn Ái Quốc, một nhân vật tích cực đã ra đời trong văn học hiện đại: nhân vật đại diện cho các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa vùng dậy làm cách mạng, đại diện cho một lực lượng cách mạng hiện nay đang làm cho chủ nghĩa đế quốc suy yếu và tan vỡ, và thúc đẩy quá trình diệt vong của nó; một nhân vật anh hùng mà giản dị, gian khổ mà trong sáng, kiên cường, bất khuất, một lòng thủy chung với cách mạng”.