Phân tích đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh (trích Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác).
Lê Hữu Trác là thầy thuốc cũng là nhà văn nổi tiếng của nước ta cuối thế kỉ XVIII. Suốt 40 năm sống thanh đạm, rũ bỏ mọi công danh, cụ vừa làm thuốc trị bệnh cứu người, vừa viết sách ý học, vừa sáng tác thơ văn, để lại cho đời một kho tàng quý báu về y học và những bức tranh thật chân xác về cuộc ...
Lê Hữu Trác là thầy thuốc cũng là nhà văn nổi tiếng của nước ta cuối thế kỉ XVIII. Suốt 40 năm sống thanh đạm, rũ bỏ mọi công danh, cụ vừa làm thuốc trị bệnh cứu người, vừa viết sách ý học, vừa sáng tác thơ văn, để lại cho đời một kho tàng quý báu về y học và những bức tranh thật chân xác về cuộc sống và con người thời ấy. Vì thế, đọc văn của Lê Hữu Trác, nhất là cuốn Thượng kinh kí sự (Kí sự lên kinh) chúng ta như được sống cùng thời, cùng nhìn ngắm, cùng suy nghĩ, xúc cảm với tác ...
Để tới nơi ở của chúa nhỏ, cụ Lê Hữu Trác phải đi trong tối om, đi qua độ năm sáu lần trướng gấm. Phòng chúa đặt sập vàng, cắm nến to trên giá đồng, bày ghế rồng sơn son thếp vàng, nệm gấm, ngót nghét chục người đứng hai bên sập hầu trực và sau tấm màn che ngang sân, cung nữ xúm xít... Đèn chiếu sáng, nổi bật màu mặt phấn và màu áo đỏ. Xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt. Chao ơi, chỉ mỗi một chúa nhỏ - thực chất là cậu bé chưa đến tuổi đi học - mà vây quanh bao nhiêu là vật dụng! Gấm vóc, lụa là, vàng ngọc, sập, ghế, đèn, nến, hương hoa, màn trướng... Đồ dùng và đồ dùng, báu vật và báu vật. Vật đã lấn át người như bủa vây, bao chặt lấy con người. Còn con người thì... tưởng như là có, có quá nhiều kia. Song đó cũng chỉ là... những đồ vật câm lặng. Cung tần, mĩ nữ, kẻ hầu người hạ của thế tử đứng ở gần, trực ở xa, tất cả đều chỉ như những cái bóng, vật vờ, mờ ảo. Phòng rộng nhưng chen chúc vật dụng, thành chật chội. Trong phòng đông người, nhưng đều im lặng thành ra lạnh lẽo, băng giá. Bao trùm tất cả là mùi vị phấn son, tuy ngào ngạt nhưng thiếu sinh khí. Trinh Cán - dù là “Đông Cung thế tử’ - cũng phải bắt đầu cuộc sống của đứa trẻ nhỏ, rất cần ánh nắng, khí trời. Vậy mà vị chúa nhỏ đêm ngày bị quây tròn, bọc kín trong cái tổ kén vàng son khác gì mầm non trong vỏ trứng.
Hình hài vóc dáng mầm non ấy ra sao? Cụ Lê Hữu Trác kể: “chúa mặc áo đỏ, ngồi trên sập vàng”. Khi thấy vị danh y - theo lệnh quan Chánh đường - lạy bốn lạy, thế tử cười khen: “Ông này lạy khéo!”. Kể cũng ra mặt con nhà chúa, đẹp áo quần, oai tư thế. Song, khi đã đứng dậy, cởi áo để thầy thuốc xem bệnh... thì than ôi, tính khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi to, gân thời xanh, chân tay gầy gò... nguyên khí đã hao mòn, thương tổn quá mức... mạch lại tế sác..., âm dương đều bị tổn hại. Cứ nhỏ nhẹ từng lời trò chuyện với quan Chánh đường, vừa thuật, vừa tả, vừa nhận xét khách quan, khoa học, vị danh y chẩn bệnh cho thế tử, đồng thời miêu tả chân dung con người. Thật đáng sợ! Toàn những đường nét chết: tinh khí khô, mặt khô, những khối hình kì dị: rốn lồi, chân tay gầy gò, mạch tế sác; những màu sắc lạnh người: gân xanh, âm dương, nguyên khí hao mòn tổn hại. Theo ý tôi, đó là vì thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi. Chỉ một lời chẩn bệnh, với nhịp điệu đối xứng màn che, trướng phủ, với điệp ngữ quá no, quá ấm, nhà khoa học có trái tim nghệ sĩ vừa chỉ đúng cội nguồn căn bệnh Trịnh Cán, vừa phê phán, vừa xót xa trước một lối sống trái với lẽ tự nhiên. Cái gì cũng quá: quá nhiều màn che, trướng phủ, quá no, quá ấm, được quá nhiều kẻ hầu hạ. Văn Lê Hữu Trác không có những dòng trữ tình ngoại đề như ở một số tác giả viết kí hiện đại. Cụ rất kiệm lời, nói ít, gợi nhiều. Mỗi câu, mỗi chữ trĩu nặng suy tư và cảm xúc. Hình ảnh thế tử Trịnh Cán chính xác từng chi tiết y học và hiện thực, sinh động, một điển hình văn chương.
Chúng ta hãy đọc tiếp đơn thuốc của thế tử: “...sáu mạch tế sác và vô lực, hữu quan yếu, hữu xích càng yếu hơn. Ấy là tì tâm hư, vị hỏa quá thịnh, không giữ được khí dương, nên âm hỏa đi càn. Vì vậy, bên ngoài thì thấy cổ trướng, đó là tượng trưng ngoài thì phù, bên trong thì trống”. Ngôn từ vẫn là của y học, hình hài tinh khí vẫn là ở một con người. Nhưng từng câu, từng chữ cứ lung linh, rộng mở, hiện về rõ nét một chân dung ốm yếu, bệnh tật của giai cấp phong kiến Lê - Trịnh lúc bấy giờ.
Cái xã hội ấy không giữ được khí dương, nên âm hỏa đi càn - điều đúng, việc thiện, sự sống không còn, điều xấu, việc ác, cái chết hoành hành, quấy phá. Cái giai cấp ấy, bên ngoài thì cổ trướng... thì phù, trong thì trống. Nghĩa là cuộc sống vật chất đã phù nề, sưng tấy, quá mức giàu sang, phú quý. Trái lại, tinh thần, đạo đức, ý chí, nghị lực - những phần bên trong quan trọng - thì lại rỗng. Nếu đọc đoạn trước và thêm những phần sau của đoạn trích, chúng ta sẽ thấy tác giả Kí sự lên kinh ghi rõ những điều sưng tấy bên ngoài, trống rỗng bên trong của cả tập đoàn phong kiến bấy giờ. Từ chúa Trịnh Sâm, đến bà hoàng Đặng Thị Huệ, quan Chánh đường quận công Hoàng Đĩnh Bảo, các bà hoàng, các ông quan lớn nhỏ khác... người được tô đậm, có người chỉ thấp thoáng. Đó là những điển hình của giai cấp thống trị với bản chất ích kỉ và bạc nhược trên bước đường suy tàn của chúng. Trong những điển hình ấy, thế tử Trịnh Cán là một điển hình nổi bật.
Vào phủ chúa Trịnh để chữa bệnh cho chúa lớn, chúa nhỏ, danh y Lê Hữu Trác đã phải làm một công việc không mấy thú vị. Tấm lòng và lẽ sống của ông gửi ở nhân gian, gắn với quê hương, thôn dã. Tuy nhiên, nhờ chuyến đi này, người thầy thuốc, nhà văn ấy đã để lại cho đời một tác phẩm văn chương quý báu, quý báu chẳng kém gì một pho sách y học, những bài thuốc chẩn trị chính xác, hiệu quả. Tìm hiểu và suy nghĩ về hình tượng ông chúa nhỏ Trịnh Cán, qua lời kê đơn, nhận xét vừa y học vừa văn chương của tác giả, chúng ta hiểu ra bao nhiêu điều bổ ích về quy luật sống, về lịch sử, về tấm lòng nhân bản và thái độ nghiêm khắc của nhà khoa học, nhà văn. Căn bệnh của Trịnh Cán, cũng như của triều đại phong kiến Lê - Trịnh cuối thế kỉ XVIII, đã được chẩn rõ ràng. Lịch sử cũng đã tìm ra phương thuốc trị bệnh. Từ áng văn của danh y Lê Hữu Trác, lời chẩn trị của ông cứ theo mãi chúng ta, nhắc nhở chúng ta: “Chính khí ở trong mà thắng, thì bệnh ờ ngoài sẽ tự nó tiêu dần, không trị bệnh mà bệnh sẽ mất”.