03/06/2017, 18:13

Phân tích đoạn trích Trao Duyên (Truyện Kiều - Nguyễn Du) (Bài 4)

Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc Việt Nam và cũng là của thế giới.Ông tên là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên.Ông sinh ra trong một gia đình phong kiến quý tộc và sống trong xã hội phong kiến – Một xã hội suy thoái, thối nát. Nguyễn Du đã từng trải qua hơn chục năm sống gian khổ ở nhiều vùng quê ...

Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc Việt Nam và cũng là của thế giới.Ông tên là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên.Ông sinh ra trong một gia đình phong kiến quý tộc và sống trong xã hội phong kiến – Một xã hội suy thoái, thối nát. Nguyễn Du đã từng trải qua hơn chục năm sống gian khổ ở nhiều vùng quê khác nhau, nếm đủ những thứ vị đắng cay của cuộc sống phong trần. Trong đó có mùi vị của sự chia ly, dang dở của tình yêu đôi lứa.Sau khi đi sứ sang Trung Quốc, Nguyễn Du sáng tác nên đại thi ...

Đoạn trích “Trao Duyên”là một đoạn trích thể hiện khá rõ bi kịch tan vỡ, dang dỡ của tình yêu Thuý Kiều - Kim Trọng và nỗi đau tột cùng của Kiều về số phận bi kịch của nàng, đồng thời thể hiện tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa xuyên suốt trong thơ Nguyễn Du trước những đau khổ, bất hạnh cũng như khát vọng hạnh phúc của con người.
 
Sau khi giải quyết xong thủ tục bán mình (“Tờ hoa đã ký-cân vàng mới trao”), lấy tiền lo cho vụ kiện nhà Kiều, ngày mai Kiều sẽ phải rời theo Mã Giám Sinh ra đi.Đêm ấy Kiều bồi hồi thương cho chàng Kim, tìm cách trả nghĩa nợ tình cho chàng.Đèn thắp sáng đêm, nước mắt đầm đìa.Nhân Thúy Vân thức dậy hỏi, Kiều bây giờ mới cậy em thay lời và trao duyên cho em.Mối tình Kim-Kiều đâu phải là mối tình trăng gió thoảng qua.Đây là mối tình đầu say đắm nhất, trong sáng nhất.Thế mà giờ đây phải đem mối tình ấy trao cho người khác – còn có nỗi đau nào hơn?!Lời Thuý Kiều nói với em đau đến từng chữ:
 
Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
 
Mở đầu cuộc trao duyên, Thuý Kiều có cách nói, cách xưng hô đặc biệt.Tại sao Kiều không nói “nhờ em” mà lại nói “cậy em” ?Bởi vì chữ cậy bao hàm ý hy vọng tha thiết của một lời trông cậy, có ý nương tựa, tin tưởng nơi quan hệ ruột thịt, gửi gắm nỗi khẩn khoản thiết tha.Kiều nói “em có chịu lời” chứ không nói “em có nhận lời” ngoài lý do từ “chịu lời” mang sắc thái bắt buộc, Kiều muốn em không được từ chối đề nghị của mình mà còn bởi vì Kiều cảm thấy đây là một sự thiệt thòi, một sự hy sinh lớn lao của em Vân – em sẽ phải yêu và kết duyên vợ chồng với một người mà mình chưa yêu.Cách nói như thế phù hợp với hoàn cảnh và tâm trạng van nài, khẩn thiết của Kiều.Ngày xưa, giáo lý phong kiến thời xưa rất nghiêm ngặt.Xưa nay bề dưới lạy bề trên, em phải thưa gửi lễ phép khi nói với chị.Nhưng lúc này, Kiều lại đang bảo em “ngồi lên” rồi “lạy”, ”thưa”.Tại sao Kiều lại chấp nhận hạ mình xuống hàng thấp của người thấp vế?Bởi vì việc và Kiều sắp “cậy” em là một việc rất hệ trọng.Tư thế “lạy”, ”thưa” là tư thế của một người chịu ơn với ân nhân của mình.Thật vậy, em Vân sẽ phải thay Kiều hy sinh tình duyên của mình mà giúp Kiều nối duyên với chàng Kim, việc làm đó Kiều mang ơn em rất lớn.Ngoài ra, hành động “lạy”, ”thưa” của Kiều còn tạo ra một bầu không khí nghiêm trang, trịnh trọng, Kiều “vưa tình vừa lễ”, làm cho em không thể không nhận lời.Với cách dùng từ khéo léo và đầy sắc thái ý nghĩa, chỉ qua hai câu thơ, Nguyễn Du đã mở đầu cuộc trao duyên đầu hồi hộp, trang trọng và đồng thời thể hiện hoàn cảnh éo le, tâm trạng khẩn thiết, bế tắc của Kiều.Nguyễn Du không kể lại thái độ của Thuý Vân ra sao bởi vì hai câu đầu chỉ là lời bày tỏ ý nguyện.Đúng là sau đó, Kiều nói ngay đến mối tình dang dở của mình:
 
Giữ đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
 
Trong thời đại phong kiến, không được phép tự do yêu đương, thì đây là một tâm sự còn giấu kín của Kiều.Giờ đây Kiều buộc phải nói rõ cho em Vân.Người xưa xem tình yêu là một gánh nặng, cho nên người ta hay nói:”gánh tương tư”.Mối tình của Kiều và chàng Kim đang đến độ đắm say nhất, nồng nàn nhất.”gánh tương tư”của Kiều giờ đây nặng hơn bao giờ hết.Trớ trêu thay, cơn gia biến ập đến với Kiều.Kiều đang “giữa đường”, đang gánh một “gánh tương tư” nặng trĩu thì gánh đứt, không sao mang xách lại được.Hình ảnh ấy đã thể hiện rõ tâm trạng bất lực của Kiều.Và vì thế mà giờ đây, Kiều phó thác “gánh tương tư” bị gãy - hay nói theo cách của Kiều là tơ duyên mối vướng – lại cho em Vân.Nhưng đối với Thuý Vân, đó là một “mối tơ thừa”.Kiều hiểu thấu cảm giác thiệt thòi của em nên nói thẳng ra:”Mặc em”, có nghĩa là “phó mặc cho em đó, dang dở hay không em cũng phải gánh vác, chắp nối cho chị.Kiều hết sức mong em dùng thứ keo bền nhất – “keo loan”, thứ keo chế bằng huyết chim loan – để “chắp mối tơ thừa” này và sao cho nó không bao giờ đứt nữa.Câu nói này mang giọng điệu của người chị phó thác cho em, nên câu thơ mang sắc thái dứt khoát, nghiêm trang và mang nhiều “sức nặng” của giọng điệu. Không còn gì để mất nữa, đến lúc này Kiều có thể bình tĩnh nói cặn kẽ chuyện tình, nỗi đau của mình:
 
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén hề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai
 
Đây là những điều bí mật của Kiều mà Thuý Vân chưa hề được biết, là điều lễ giáo phong kiến cấm kỵ, nhưng bây giờ, Kiều buộc phải thành thật kể cho em nghe, với hy vọng một sự thông cảm chia sẻ.Lời nói của Kiều thật bình tĩnh, rõ ràng và ngẹn ngào, cặn kẽ nỗi đau.Sự trùng điệp của ba điệp từ “khi”:”khi gặp”, ”khi ngày”, ”khi đêm” đã nói lên sự thề ước sâu nặng, không thể nuốt lời, càng khẳng định tình trạnng bế tắc của Kiều.Kiều quan niệm tình yêu của mình khác với quan niệm tình yêu của xã hội phong kiến đương thời:Đó là sự cảm nhận yêu thương từ trong trái tim chứ không phải sự bức ép, ràng buộc.Phải chăng Nguyễn Du đã cho Kiều phá vỡ quan niệm lạc hậu, bất công đối với tình yêu đôi lứa để hướng tới tình yêu đích thực của con người? Mối tình Kim-Kiều đang mặn nồng thì cơn gia biến ấp đến.Lúc này đây Kiều phải chọn một trong hai:”Hiếu” hoặc “tình” chứ không thể “hai bề vẹn hai” được.Thật ra, trong hoàn cảnh “Hiếu-tình chọn một” thì Kiều vẫn có thể chọn “tình”, tức là bỏ mặt gia đình trong sự tra khảo dã man mà bỏ trốn, trọn đời bên chàng Kim.Nhưng Kiều đã chọn “hiếu”, Kiều đã hy sinh mối tình với chàng Kim và thậm chí là cả tấm thân trinh trắng của mình để cứu lấy gia đình.Kiều đã nói ra cái lý của mình và hy vọng em ắt sẽ thấu hiểu tâm trạng bi kịch của mình.Từ “sự đâu” như một lời oán trách số phận, ngoại cảnh đã gây “sóng gió bất kỳ” làm tan vỡ mối tình đầu sâu nặng.
 
Trở lại với cuộc trao duyên, sau khi kể rõ chuyện tình và nỗi đau của mình, Kiều chuyển sang phân tích ý nghĩa, gửi gắm em Vân:
 
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây
 
“Ngày Xuân” mang tính ước lệ, có ý tuổi trẻ của người con gái.Tuổi trẻ của em con dài và vì “tình máu mủ” giữa em và chị mà “thay lời nước non” giúp chị.Kiều kêu gọi tình chị em máu mủ ruột thịt thiêng liêng, gợi dậy ở Vân đức hy sinh và lòng vị tha vì người thân.Nếu được thõa nguyện, thì dẫu Kiều chết đi, dưới chín suối cũng hả dạ, vì có được tiếng thơm là người có tình nghĩ.Nhưng điều đặc biệt ở đây là Kiều xem như mình đã chết, như người chết.Câu”ngày xuân em hãy còn dài” còn có ý nghĩa là “ngày xuân của chị đã hết rồi”, chị chỉ còn “thịt nát xương mòn” và “ngậm cười chín suối”, nơi cõi chết.Nguyễn Du đã khéo léo tinh tế để cho dự cảm từ từ len lõi vào lời nói của Kiều.Bề ngoài tưởng như Kiều đã sắp đặt hết mọi chuyện nhưng sâu thẳng trong lòng là nỗi đau đớn tưởng chừng như có thể chết được.
 
Nói xong lời thỏa nguyện bình sinh và hàm ơn đối với em, Kiều liền trao kỷ vật kỷ niệm:
 
Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung.
 
“Chiếc vành” là tặng vật đầu tiên của chàng Kim tặng cho Kiều khi nang nhận lời.”Tờ mây” là tờ hoa tiên có vẽ vân mây, là tờ hoa tiên mà trên đó Kiều đã ghi lời thề(“Tiên thề cùng thảo một chương”).Kiều trao duyên cho Vân thì những những vật kỉ niệm(“chiếc vành”, ”tờ mây”) trước đây thuộc về mối tình Kiều - Kim thì bây giờ đã thuộc về Vân – Kim.Cho nên, khi đã gửi gắm “lời nước non”, việc hiển nhiên Kiều phải làm là trao những vật thiêng liêng ấy lại cho Vân.Nhưng câu tiếp theo thật kỳ lạ:”Duyên này thì giữ vật này của chung”!”Duyên đây là nhân duyên, duyên phận, cơ duyên, tức là sự run rủi cho số phận hai người trai gái gặp nhau, kết đôi với nhau và lấy nhau.”Duyên này” là duyên mà Kiều đã trao cho Vân, trở thành duyên của Vân với chàng Kim, cho nên Kiều dặn Vân phải giữ lấy.Nhưng tại sao vật kỷ niệm này là của chung?Ở đoạn trên, du thuyết phục em bằng lí, hay bằng tình hay bằng cả hai thì vẫn là ngôn ngữ của lí trí, giọng thơ đều đều, trầm trầm.Đến đây thì lời thơ như nấc thẹn.Cái “gút” tâm trạng đầu đoạn trích đã được “mơ”û ra nhưng dường như giờ lại bị “thắt” lại thể hiện qua lời nói bất bình thường.Nút “thắt” này chính là nút thắt của nội tâm Kiều.Lời lẽ ấy là lời lẽ của nội tâm Kiều bất chợt thốt ra trước sự thật cay đắng và phũ phàng:Vật này(Chiếc vành, Tờ mây) là của nàng, chàng Kim là của nàng, sao bây giờ lại là của Vân?Nội tâm rối bời, giằng xé ấy thể hiện Kiều còn muốn giữ lại cho mình, cho quá khứ chôn sâu trong trái tim Kiều, không muốn trao hoàn toàn cho em, thể hiện tâm trạng day dứt, vướng víu, níu kéo của Kiều đối với những kỷ niệm tình yêu của mình với chàng Kim hay nói khác hơn là Kiều “trao mà không trao”:trao kỷ vật tình yêu cho em mà không tài nào dứt ra khỏi mối tình.Điều đó chứng tỏ:”Kiều trao duyên chứ không trao tình”.Đó là một sự thật đau đớn lòng, khiến cho bao đoc giả phải cảm động.Hai câu thơ trên là tình tiết chính của cuộc trao duyên nên mang nhiều ý nghĩa biểu tượng và trữ tình rất lớn.Nguyễn Du thật tinh tế và cũng thật nhân bản trong ý thơ của mình.Chỉ với hai câu thơ mà ông đã chuyển tải đến độc giả nhiều khía cạnh tâm trạng của Kiều hay mang tính khái quát hơn là của cả những người con gái đang yêu trong xã hội phong kiến đương thời và thậm chí ở xã hội hiện đại ngày nay:”Khi đang yêu, ai lại muốn trao duyên bao giờ?”
 
Từ nay, những kỷ vật Kiều trao lại cho em còn là vật làm tin nhắc nhở đến Kiều, để khi Vân có được hạnh phúc thì đừng quên Kiều:
 
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương huyền ngày xưa
 
Ý nghĩ của Kiều thật chua chát, tủi buồn.Nó đọng lại ở câu:”Dù em nên vợ nên chồng”.Trao duyên cho em rồi, cũng đã trao trả kỷ vật lại cho em, đã “cậy” em, ”lạy”em, biết bao nhiêu khẩn khoản, tin tưởng…ấy thế mà Kiều vẫn đặt một giả thiết, như có điều gì đó vẫn chưa ổn, chưa yên.Kiều tự thấy mình đáng thương biết bao, mình là “người mệnh bạc” để cho người khác(em Vân) phải “xót”, phải thương hại!Cây đàn hồ đào ngày nào Kiều đàn cho chàng Kim nghe, và mảnh hương huyền ngày nào từng chướng kiến hai người thề nguyền cũng để lại cho em như là vật của tin.Đối với Kiều, chúng đã trở thành quá khứ xa xôi của “ngày xưa”.Trớ trêu thay, ”của tin” vẫn còn đó mà người thì lại “mất”:”Mất lòng còn chút của tin” – lời nói của Kiều đề cập đến cái chết mà vẫn mang âm điệu trầm trầm, vẻ như “chuyện tất yếu” - khiến cho nhiều độc giả nhạy cảm phải “nhói lòng”.
 
Ý nghĩ về cái chết cứ trở đi trở lại, ám ảnh Kiều.Nhất là khi trao kỷ vật tình yêu cho em, Kiều cảm thấy như mình đã chết, bởi khi mất đi tình yêu, cuộc sống đối với Kiều chẳng còn ý nghĩa gì nữa.Rồi như người mất hồn, vẫn ngồi đây, mà hồn thì bay xa xăm tận “mai sau”:
 
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lòng hương ấy so thơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
 
Kiều đã mất hết hiện tại.Tương lai của nàng trông chờ vào lòng thương.Mai sau khi em “đốt hương”, chơi đàn(“so tơ”) – những lúc hạnh phục thì hãy nhớ đến chị.Cái cách hình dung oan hồn bơ vơ của mình nơi mai sau thật là thê thảm:Kiều sau này chỉ là một ngọn gió vật vờ nơi lá cây ngọn cỏ! Còn gì để thương cảm hơn là gợi lên những hình ảnh hư vô?Kiều bị ám ảnh bởi oan hồn của Đạm Tiên.Kiều gặp chàng Kim tại nơi gần mộ Đạm Tiên, đi chơi xuân về cũng gặp mộ Đạm Tiên…Trước mộ của Đạm Tiên, nghe em Vương Quan kể về số phận đau thương của nàng, Kiều không cầm nổi nước mắt:”Kiều đâu mối sẵn thương tâm-“Thoắt nghe, Kiều đã đầm đầm châu sa”.Nay số phận Kiều cũng éo le như như của Đạm Tiên.Cho nên, ”hồn” của Kiều cũng giống như hồn Đạm Tiên”ào ào đổ lộc rung cây” - có ý thức quay về cõi trần:
 
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
 
Thì ra, ”hồn” của Kiều vẫn chưa dứt nổi chàng Kim.Hồn của Kiều là “hồn mang nặng lời thề”.”Lời thề”ở đây chính là lời thề đêm thềnguyền vằng vặc ánh trăng mà Kiều không bao giờ quên được:”Vầng trăng vằng vặc giữa trời-Đinh ninh hai miệng một lời song song”.”Lời thề” ấy của Kiều với chàng Kim đối với nàng cực kỳ quan trọng.Kiều đã”trăm năm tạc một chữ đồng đến xương” với chàng Kim.Bởi thế, dù có tan tành thân xác “bồ liễu, dáng vẻ”trúc mai”, Kiều cũng quyết gặp lại trực tiếp chàng Kim để “đền nghì” cho chàng Kim.Đó là một ý thức, một tấm lòng, một tư tưởng mà không phải người con gái nào cũng có được.Sự thủy chung của Kiều vẫn được thể hiện rõ nét, đậm đà và càng sâu sắc hơn trong hoàn cảnh ngặt nghèo.Còn đối với Vân, khi “hồn Kiều quay trở về dương gian:
 
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan
 
“Dạ đài” là nơi âm phủ tăm tối.Lúc ấy, một người là con người cõi trần(Thúy Vân), một kẻ là hồn ma âm phủ(Thuý Kiều).em và chị sẽ “cách mặt khuất lời”, tức là sẽ không thấy được nhau và cũng không nghe được tiếng nói của nhau.Khi đó, em hãy rảy chén nước cho “người thác oan” là chị(Theo quan niệm tôn giáo cổ truyền thì nước tinh khiết có thể tẩy rửa nỗi oan khuất, làm cho oan hồn được mát mẻ siêu thoát).Qua đó chứng tỏ Kiều tuy tự nguyện hy sinh, bán mình chuộc cha, nhưng vẫn ý thực được mình bị oan uổng cho nên sau khi chết, hồn oan không tan.Trong tình cảnh ngặt nghèo như vậy, Kiều vẫn có ý thức nhận biết và đấu tranh đến cùng đối với sự bất công của xã hội phong kiến đương thời.
 
Trong giây phút ấy, Vân bỗng bị “hồn” Kiều quên đi.Kiều đang sống mà cảm thấy như mình đã chết, đang nói với em mình mà không biết đang nói với ai, lúc này, Kiều rơi vào trạng thái độc thoại nội tâm.Nỗi bất hạnh hiện lên thật trọn vẹn, hiện lên trong hình dung nhưng rất cụ thể khiến Kiều vô cùng tuyệt vọng:
 
Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể là sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
 
Lời đối thoại có sự chuyển hướng:Đang nói với em Vân, Kiều dường như quay sang nói với chàng Kim hay nói khác hơn, trước mắt Kiều, Thuý Vân trở thành chàng Kim.Cho nên bao nhiêu tình thường nỗi nhớ, nỗi thương yêu ấp ủ, nỗi đau khổ thống thiết cho mối tình đầu tan vỡ bỗng tuôn tràn ra.Nhìn lại cái “bây giờ” của Kiều chỉ thấy mất mát.”Trâm” và “gương” là biểu tượng của tình duyên ngày xưa.Thế nhưng giờ “Trâm” đã “gãy” còn “gương” cũng đã vỡ “tan” cả.Hình tượng ”Trâm gãy gương tan” là hình ảnh của tình duyên tan vỡ.Kiều đã nhận của chàng Kim “muôn vàn ái ân” đến nỗi “kể làm sao xiết” mà giờ đây Kiều lại phản bội, thất hứa, làm “tơ duyên ngắn ngủi”, ”trân gãy gương tan”.Nghẹn ngào, cay đắng, xót xa – bấy nhiêu tâm trạng đối diện với Kiều.Tuy trao duyên cho em Vân, nhờ em “thay lời nước non” với chàng Kim, Kiều vẫn thấy mình chịu muôn vàn tội lỗi nên nàng đã gửi lại “trăm nghìn cái lạy” cho “tình quân”-người đã cùng nàng trải qua bao kỷ niệm tình yêu nồng nàn, say đắm, đã cùng nàng thề nguyền trăm năm bên nhau mà cuối cùng lại bị nàng phản bội-mà vẫn cảm thấy chưa đủ.Truớc đây ít phút, nàng đã “lạy” em Vân của mình để cầu xin em nối duyên với chàng.Khác hẳn với cái lạy “mang ơn”, cái “lạy” này là cái lạy tạ tội vô cùng thống thiết.Trong tình cảnh này, Kiều vẫn không thể làm gì hơn ngoài sự tạ tội.Và cái lạy đó đối với Kiều đã kết thức mối tình đầu ngắn ngủi, đầy tiếc nuối.Câu:”Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi” Kiều thốt lên sao mà thấm đượm vị chua chát, cay đắng của sự chia ly lứa đôi.Đến đây, Kiều mới thấm thía nỗi cô đơn và số phận của mình giữa cõi đời bất công:
 
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng
 
Đó là lời oán trách, lời than oán số phận “bạc như vôi” của mình.Lời than oán của Kiều không ai có thể trả lời được, đó là một lời than oán cay đắng, tuyệt vọng, kêu lên chỉ để oán trách trời mà thôi!Rồi đây số phân của Kiều sẽ trôi dạt như bông hoađẹp đẽ đã “đành trôi” trên dòng nước dơ bẩn, nhơ nhớp chảy cuốn xiết, lỡ làng, không thể nào cứu vãn được nữa.”Nước chảy hoa trôi”là cảnh xuân đã hết, hoa rụng, tuyết tan, nghĩa là tuổi thanh xuân trinh trắng và đẹp đẽ của Kiều đã chấm dứt từ đây.Và lúc đó, trong những giây phút cuối cùng của cuộc trao duyên, Kiều cất tiếng gọi người yêu:
 
Ôi Kim Lang!Hỡi Kim Lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
 
“Thôi thôi” là tiếng than tiếc rẻ, dằn vặc.”Thôi thôi” cũng là tiếng xác nhận sự phụ bạc của mình.Tiếng gọi của nàng như một tiếng kêu chới với và tuyệt vọng bởi vì không có hồi âm.Kiều đã gắng gượng đến phút cuối cùng, lấy hết sức mình để thốt lên những tiếng kêu cuối cùng – tiếng kêu than oán, kêu cứu của một người phụ nữ “tài hoa bạc mệnh” trong xã hội phong kiến.Sau tiếng kêu não lòng ấy, Kiều ngất đi, kết thúc cuộc trao duyên đầy chất trữ tình:”Cạn lời hồn ngất máu sau-Một hơi lặng ngắt đôi tay giá đồng”.
 
Đoạn thơ “Trao Duyên” đúng là Kiều đã nói hết lời(“cạn lời”).Lời trao duyên như nói một lời trăn trối, vĩnh biệt.Trước lời trao duyên, tình yêu thật mặn nồng, say đắm, hạnh phúc, sau lời trao duyên mình đã trắng tay, đôi lứa chia ly, tình yêu tan vỡ.Trước khi trao duyên mình là người sống, sau khi trao duyên mình là hồn oan nơi chín suối.Bằng tài năng tuyệt vời của mình, Nguyễn Du hình dung rất rõ và thể hiện rất thành công số phận bi kịch, nội tâm rối bời, tâm trạng đau khổ, dằng vặc, cay đắng, xót xa và tuyệt vọng trong cuộc trao duyên của Kiều với việc sử dụng một cách khéo léo, tinh tế, sắc sảo từ ngữ, nhiều biện pháp nghệ thuật thích hợp, kết hợp linh động lời kể với lời tự tình, lời độc thoại, ……, làm cho đoạn”trao duyên” trở thành đoạn thơ lâm li nhất trong Truyện Kiều.Và đó cũng là lý do vì sao Truyện Kiều trở thành bất hủ!

0