06/05/2018, 09:07

Phân tích đoạn trích Ra-Ma buộc tội ( trích sử thi Ra-ma-ya-na) – Văn mẫu hay lớp 10

Xem nhanh nội dung Phân tích đoạn trích Ra-Ma buộc tội ( trích sử thi Ra-ma-ya-na) – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn thành phố Hà Nội Ramayana là 1 trong 2 bộ sử thi vĩ đại nhất của người Ấn Độ, là tác phẩm bất hủ, có sức sống trường tồn và trở thành bài ca của thời đại ...

Xem nhanh nội dung

Phân tích đoạn trích Ra-Ma buộc tội ( trích sử thi Ra-ma-ya-na) – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn thành phố Hà Nội

Ramayana là 1 trong 2 bộ sử thi vĩ đại nhất của người Ấn Độ, là tác phẩm bất hủ, có sức sống trường tồn và trở thành bài ca của thời đại . Người Ấn Độ thường tự hào rằng: “chừng nào sông chưa cạn, núi chưa mòn thì sử thi Ramayana  còn làm say lòng người và cứu giúp họ ra khỏi tội lỗi”.

Đoạn trích Ra-ma buộc tội kể về sự kiện hoàng tử Ra-ma sau khi hạ gục quỷ vương Ra-va-na đã giành lại được người vợ yêu quý là nàng Xi-ta kiều diễm. Vợ chồng gặp lại nhau, Xi-ta vui mừng khôn xiết. Nhưng hoàng tử Ra-ma nghi ngờ vợ mình không giữ được trọn vẹn danh tiết trong thời gian bị quỷ Ra-va-na bắt cóc nên đã tuyên bố từ bỏ nàng. Xi-ta không thể thanh minh nên đành bước lên dàn hoả thiêu, nhờ thần Lửa A-nhi chứng giám cho đức hạnh trung trinh của mình. Qua nội dung đoạn trích, các tác giả đã thể hiện quan điểm về vị vua mẫu mực (Ra-ma) và về người phụ nữ lí tưởng (Xi-ta) của dân tộc Ấn Độ cổ xưa.

Ra-ma là nhân vật hội tụ đầy đủ tính cách của một vị anh hùng mà dân tộc Ấn Độ lúc bấy giờ.

Tính cách cao quý của chàng được thể hiện rõ trong mọi tình huống và ở đoạn trích này là khá đặc biệt.

Nếu giống như chúng ta sau bao nhiêu ngày xa cách và cuộc chiến gian khổ để dành lại người mình yêu thương nhất, đáng lẽ chàng phải vui mới phải. Nhưng Ra-ma lại đi ngược lại với lẽ tự nhiên. Chàng nói với Xi ta:” Hỡi phu nhân cao quý, Ta đã đưa nàng tới đây sau khi đã đánh bại kẻ thù. Ta đã làm tất cả bằng khả năng của mình. Ta đã trả thù kẻ lăng nhục ta và cơn giận của ta đã hả. Ngày hôm nay, ai nấy đều đã  được chứng kiến tài nghệ của ta. Ta đã làm tròn lời hứa và giờ đây không còn gì vướng mắc với chính mình. Nàng đã bị gã Ra-va-na tâm địa xảo trá bắt cóc khi vắng mặt ta, đó là do số phận của nàng xui nên, nhưng ta đã gỡ cho nàng khỏi điều vu khống. Kẻ nào bị quân thù lăng nhục mà không đem tài nghệ của mình ra trả thù là kẻ tầm thường. Đây rõ rằng là lời tuyên bố của một vị anh hùng đầy khí chất. Coi danh dự của bản thân hơn cả tính mạng con người.  Ra-ma đã đi ngược lại với lẽ tự nhiên. Ra-ma đã chiến đấu và chiến thắng quỷ vương Ra-va-na trước hết là vì danh dự dòng dõi cao quý của mình, vốn là người thẳng thắn, trung thực, chàng không giấu diếm  suy nghĩ về người vợ mà chàng vừa giành lại được từ tay quỷ vương:… Phải biết chắc điều này: chẳng phải vì nàng mà ta đã đánh thắng kẻ thù với sự giúp đỡ của bạn bè. Ta làm điều đó vì nhân phẩm của ta, để xóa bỏ vết ô nhục, để bảo vệ uy tín và danh dự của dòng họ lẫy lừng tiếng tăm của ta. Ta làm điều đó chính là để chứng tỏ ta không thuộc về một gia đình bình thường. Nay ta phải nghi ngờ tư cách của nàng, vì nàng đã lưu lại lâu trong nhà một kẻ xa lạ. Giờ đây, nàng đang đứng trước mặt ta, nhưng trông thấy nàng, ta không chịu nổi, chẳng khác nào ánh sáng với người bị đau mắt. Vậy ta nói cho nàng hay, nàng muốn đi đâu thì tuỳ nàng, ta không ưng có nàng nữa. Người đã sinh trưởng trong một gia đình cao quý có thế nào lại lấy về một người vợ từng sống trong nhà kẻ khác, đơn giản chỉ vì mụ ta là một vật để yêu đương ? Nàng đã bị quấy nhiễu khi ở trong vạt áo của Ra-va-na, đôi mắt tội lỗi của hắn đã hau háu nhìn khắp người nàng, vậy làm sao ta có thể nhận nàng về khi nghĩ tới gia đình cao quý đã sinh ra ta?

Cuộc gặp gỡ giữa Ra-ma và Xi-ta không chỉ có hai người mà diễn ra trước đông đảo anh em, bạn hữu và dân chúng. Vì thế Ra-ma không thể chỉ cư xử với tự cách của một người chồng mà còn với tư cách của một vị anh hùng vừa chiến thắng kẻ thù một cách vinh quang và cao hơn nữa là tư cách của một đấng quân vương. Do vậy ta không thể trách Ra-ma quá lạnh lùng, tàn nhẫn, vì con người của giai cấp, con người của xã hội trong chàng buộc chàng phải cư xử như vậy với người vợ mà chàng trân trọng gọi là phu nhân cao quý.

Đối với Ra-ma thì danh dự của bản thân, gia đình và dòng tộc là quan trọng nhất, cho nên dẫu yêu thương người vợ hiền  thục, xinh đẹp đến mấy đi chăng nữa thì chàng vẫn phải chối từ vì không thể vượt lên trên dư luận.

Những lời nói của hoàng tử Ra-ma khiến Xi-ta tan nát cả cõi lòng; Nàng đau đớn đến nghẹt thở, như một dây leo bị vòi voi quật nát. Nghe những lời tố cáo chưa từng có, trước mặt đông đủ mọi người, Xi-ta xấu hổ cho số kiếp của nàng. Nàng muốn tự chôn vùi cả hình hài thân xác của mình. Mỗi lời nói của Ra-ma xuyên vào trái tim nàng như một mũi tên. Cớ sao chàng lại dùng những lời lẽ gay gắt khó tả như vậy đối với thiếp, giống như một kẻ thấp hèn chửi mắng một con mụ thấp bèn? Thiếp đâu phải là người như chàng tưởng ! Thiếp có thể lấy tư cách của thiếp ra mà thề, hãy tin vào danh dự của thiếp. Suy từ hành vi của loại phụ nữ thấp hèn, chàng đã ngờ vực tất cả giới phụ nữ, nhưng như thế đâu có phải. Nếu chàng có hiểu biết thiếp chút đỉnh thì xin hãy từ bỏ mối ngờ vực không căn cứ đó đi…

Trong cơn tuyệt vọng và  trước thái độ khó lay chuyển của hoàng tử Ra-ma Xi-ta chi còn cách duy nhất là nhờ thần Lửa A-nhi minh oan cho mình: Nếu con trước sau một lòng một dạ với Ra-ma thì cúi xin thần hãy tìm cách bảo vệ con. Ra-ma đã coi một phụ nữ trinh tiết như một kẻ gian dối, nhưng nếu con trong trắng, xin thần A-nhi phù hộ cho con. Dứt lời, nàng dũng cảm bước vào ngọn lửa đang rừng rực cháy của giàn hỏa thiêu.

Nàng thật đẹp và oai hùng khi bước vào giàn hỏa thiêu. Trong khi đó mọi người đều khâm phục và kính nể nàng, gì trẻ trai gái đều tiếc thương và cảm thông cho số phận  của nàng. Mọi vật xung quanh đều bật ra tiếng khóc thương cho nàng.

Đức hạnh trung trinh cùng lòng dũng cảm tuyệt vời của nàng Xi-ta đã làm chấn động cả thần thánh, con người và ma quỷ. Tất thảy đểu rơi lệ trước nỗi oan của nàng. Cuối cùng, đúng như lời cầu xin của Xi-ta, thần Lửa A-nhi đã giải oan và bảo vệ nàng nguyên vẹn.

Qua sử thi chúng ta thấy dân tộc Ấn Độ đã dựng lên một vị anh hùng của chính dân tộc họ và qua đó cũng thấy được sự đức hạnh, thủy chung của người phụ nữ Ấn Độ lúc bấy giờ.

Phân tích cảnh Ra-ma buộc tội Xi-ta – Bài làm 2

I. Mở bài.

Đoạn “Ra-ma buộc tội” trích trong khúc ca thứ 6, chương 79 sử thi Ra- ma –ya – na. 78 chương trước kể lại dòng dõi, cuộc đời của Ra-ma, 13 năm đi đày và cuộc chiến tranh đánh thắng quỷ vương Ra-va-na để cứu nàng Xi-ta xinh đẹp. Lúc giải phóng đảo Lan-ka, Ra-ma cùng đoàn quân ca khúc khải hoàn thì hạn đi đày 13 năm gần kết thúc. Bỗng Ra-ma nổi cơn ghen tuông dữ dội. Trong chương 79, Ra-ma dùng những lời lẽ nặng nề, gay gắt buộc tội Xi-ta. nghi ngờ nàng về sự trong trắng, thúy chưng của nàng Xi-ta bước vào giàn lửa của thần An-hi để chứng minh tất cả… Ra-ma chia tay các chiến hữu. chàng cùng em trai và vợ dùng chiếc thiên xa bay về kinh đô Kô-sa-la..

Chương 79 khắc họa thêm một nét đẹp về con người thiện của đẳng cấp Kơxatrya (vương công, quý tộc, võ sĩ) và đức nghĩa trung hậu, đoan trang của người phụ nữ cao quý.

II.   Phân tích.

1.  Ra-ma ghen tuông.

–   Khi Xi-ta đã khiêm nhường đứng trước Ra-ma, chàng nói với vợ một cách mỉa mai: “Hởi phu nhân cao quý”. Quan hệ vợ – chồng hầu như không còn nữa.

Cuộc giao tranh đã kết thúc, theo Ra-ma đó là nghĩa vụ và tài năng đã hoàn thành: “Ta đã gỡ cho nàng khỏi điều vu khống” – nghĩa là nàng bị Ra-va-na bắt cóc chứ không phải đi theo hắn, “cơn giận ta đã hả, và cơn ta đã trả thù kẻ lăng nhục ta”. Ra-ma đã sống vì một nguyên lí đạo đức của đẳng cấp Kơxatrya của mình: “kê nào bị quân thù lăng nhục mà không đem tài nghệ của mình ra để trả thù, là kẻ tầm thường”. Ra-ma cũng dành những lời tốt đẹp nhất để ca ngợi Ha-nu-man và Vi-phi-sa-na – hai chiến hữu tài ba, cao cả của mình.

Trước nhan sắc của Xi-ta: “khuôn mặt bông sen”, “những cuộn tóc cuộn sóng” và những giọt lệ của nàng, lòng Ra-ma “đau như cắt”, nghĩa là chàng vẫn say đắm Xi-ta. Nhưng danh dự là trên hết, là tất cả, bởi lẽ người anh hùng “sợ tai tiếng”. Phải kết thúc chiến tranh là vì nhân phẩm, là để “xóa bò vết ô nhục vi sợ uy tín và danh dự của dòng họ lừng lẫy tiếng tăm của mình”.

Ra-ma không thế “nhận nàng về”, “không ưng có nàng nữa” vì nàng đã lưu lại tại nhà một kẻ xa lạ, vì Ra-va-na với “đôi mắt tội lỗi… hau háu nhìn khắp người nàng” nghĩa là nàng thất thân với hắn, cho nên Ra-ma phải nghĩ đến “gia đình cao quý” đã sinh ra mình.

Tóm lại, Ra-ma vẫn còn yêu Xi-ta xinh đẹp nhưng vì danh dự, nhân phẩm của người anh hùng, của dòng họ cao quý mà chàng phải buộc tội Xi-ta, chấm dứt quan hệ vợ chồng với nàng: “Vậy ta nói cho nàng hay, nàng muốn đi đâu thì tùy nàng, ta không ưng có nàng nữa”. Ra-ma cảm thấy xấu hố bị xúc phạm; khi trông thấy Xi-ta thì “không chịu nổi”, “chẳng khác ánh sáng với người bị đau mắt”. Ra-ma ghen tuông buộc tội không phải vì mù quáng mà trái lại, ghen tuông và buộc tội vì nhân phẩm, danh dự, một nét tính cách của con người thiện của đẳng cấp Kơxatrya cao quý trong xã hội Ấn Độ thời đại cổ đại.

2.  Nàng Xi-ta.

Xi-ta được miêu tả trong chiều sâu của bi kịch về tình yêu và danh dự.

–  Nàng đau khổ vì bị oan, bị xúc phạm. Nàng ‘‘đau đớn nghẹn thở”. Nàng xấu hổ cho số kiếp của nàng”, nàng muốn chết ngay “muốn tự chôn vùi cả cái hình hài của mình”. Nàng vô cùng đau đớn trước những lời buộc tội của Ra-ma, nàng cảm thấy hình như muôn nghìn mũi tên “xuyên vào trái tim nàng". Nàng khóc, “nước mắt nàng đổ ra như suối”.

–   Xi-ta đoan trang và bình tĩnh bác bỏ mọi lời buộc tội của Ra-ma. Nàng khẳng định: “Trái tim thiếp đây, thuộc về chàng”. Chàng chưa hiểu được thiếp qua tình yêu và tâm hồn thiếp. Chàng tự hào về dòng dõi cao quý thì thiếp có kém gì: “đất là mẹ của thiếp”. Nếu Ra-ma mỉa mai gọi Xi-ta là “phu nhân cao quý” thì Xi-ta cũng đàng hoàng đáp lại: “Hỡi đức vua” và trách “cớ sao hồi còn thanh niên chàng đã cưới thiếp?”.

–   Xi-ta nhảy vào giàn hỏa thiêu là một cảnh vô cùng bi tráng. Ai đã từng mục kích điệu múa “Nàng Xi-ta”? Ra-ma “khủng khiếp như Thần chết!”. Các thánh thần tự hào nhìn Xi-ta nhảy vào lửa “chẳng khác nào một đồ cúng trong lễ tế sinh”. Đông đảo phụ nữ thì “chẳng khác nào một đồ củng trong lễ tế sinh”. Đông đảo phụ nữ thì “kêu khóc thảm thương”. Loài ma quỷ như Va-na-ra, Paksaxa cũng “kêu khóc vang trời”.

Hình ảnh Xi-ta đàng hoàng tự tin. Nàng “lượn quanh” Ra-ma như để chào vĩnh biệt. Nàng lạy chư thần cao quý thiêng liêng. Nàng cất lời nguyền với thần A-nhi: khẳng định mình bị oan, một phụ nữ trinh tiết bị coi như một kẻ gian dối; tự hào về lòng trong trắng thủy chung trong tình yêu; cúi xin Thần “bảo vệ con”, “phù hộ con”.

–  Ta hãy nghe lời nguyện cầu của nàng Xi-ta: “Nếu con trước sau một lòng dạ với Ra-ma thì cúi xin Thần hãy tìm hét cách bảo vệ con. Ra-ma đã coi một phụ nữ trinh tiết như một kẻ gian dối; nhưng nếu con trong trắng xin thần A-nhi phù hộ cho con”.

III Kết luận.

Đọc sử thi Ra-rna-ya-na ta như thấy ngọn lửa sáng rực bừng ánh mặt trời, nàng Xi-ta lộng lẫy kiều diễm múa như bay theo ánh lửa, thần lửa A-nhi minh chứng và cứu sống nàng. Ra-ma dang đôi cánh tay đón Xi-ta, nước mắt chan hòa sung sướng, vừa ân hận, vừa tự hào.

Phân tích nhân vật Ra-ma đoạn trích Ra-ma buộc tội (trích sử thi Ra-ma-ya-na của Ấn Độ) – Bài làm 3

Xi-ta là một người phụ nữ được lí tưởng hóa: thông minh, chung thủy, giàu lòng tự trọng, tự tin và vô cùng can đảm.

Phẩm chất thông minh ở nàng thể hiện trước hết ở sự linh cảm. Nóng lòng đến gặp chồng sau khi được chồng cứu thoát khỏi bàn tay nhơ bẩn của quỷ vương Ra-va-na, nhưng “Gia-na-ki mở tròn đôi mắt đẫm lệ” nhìn Ra-ma không chỉ là vì thất vọng (cái mà Xi-ta chờ ở chồng là sự âu yếm của cuộc đoàn viên). Sự mẫn cảm ở Xi-ta dường như mách bảo điều gì ghê gớm, rất hệ trọng với nàng sắp sửa diễn ra. Một cơn bão chỉ giây phút nữa thôi sẽ bất ngờ đổ ập xuống mà dấu hiệu của nó lúc này là sự im lặng rất đáng nghi ngơ. Tai Xi-ta nghe Ra-ma nói mà trí tuệ nàng đã đọc ra những ý nghĩa ở ngoài lời. Bao nhiêu những dấu hiệu không lành giúp cho Xi-ta nhận biết. Nào là chính chàng đã cứu thoát cho nàng. Điều này đã quá rõ ràng nên thật là khó hiểu. Bởi thật ra cứu vợ tai qua nạn khỏi là nghĩa vụ muôn đời của mọi người đàn ông chân chính, chưa nói là người quyền quý như Ra-ma. Vậy mục đích của nó là gì? Nào là tại sao gặp nàng, đối thoại với nàng. Ra-ma chỉ nhắc đến những nhân vật không quan trọng (so với bản thân nàng) là Ha-nu-man và Vi-phi-sa-na? Cũng là còn chưa nói đến sự lảng tránh của chính Ra-ma trong đôi mắt có phần thảng thốt của chàng lúc nhìn Xi-ta (mà người dẫn truyện nhận thấy và miêu tả: “lòng Ra-ma đau như dao cắt”), hoặc cách xưng hô bằng cách các đại từ nhân xưng trang trọng là “phu nhân cao quý” nữa,…

Chỉ người vợ yêu chồng mới cảm nhận được nỗi đau khi tình yêu của mình bị chính người chồng làm thương tổn. “Đôi mắt đẫm lệ” của Xi-ta nhìn chồng là đôi mắt bi thương. Bởi lẽ với Xi-ta, điều cao quý và thiêng liêng nhất là tình yêu với chồng. Ngay cả vẻ đẹp thể chất của nàng mà trời phú cho cũng là vì tình yêu ấy. Và bây giờ vẻ đẹp ấy đang sáng lên, đang chờ đợi như một lần trước đây chờ đợi. Chỉ có điều lúc này nó trở nên lạc lõng biết bao. Nó đã là một nghịch cảnh thật trớ trêu khi tình yêu ở chàng đã hết. Nhưng điều đó đầu tiên mới chỉ là cảm giác thoáng qua. Chỉ sau khi nghe hết lời luận tội của Ra-ma, Xi-ta “đau đớn đến nghẹt thở, như một cái dây leo bị vòi voi quật nát”. Tác giả đã sử dụng phép so sánh để đặc tả nỗiđau của Xi-ta. Rồi cả một trường đoạn tiếp theo như những con sóng ào ạt miêu tả cảnh xô đẩy dập vùi. Mỗi lời nói của Ra-ma nhằm vào Xi-ta như những mũi tên trúng đích. Nàng bị săn đuổi đến cùng: “nghe những lời tố cáo chưa từng có, trước mặt đông đủ mọi người, Gia-na-ki xấu hổ cho số kiếp của nàng. Nàng muốn tựchôn vùi cả hình hài thân xác của mình…” Rồi sau đó, lời biện minh của Xi-ta một phần dựa vào lí lẽ, nhưng đến hai phần lại dựa vào tình yêu. Cái lí lẽ ấy thuộc về hoàn cảnh khách quan, bị động (Ra-va-na bắt cóc khi Xi-ta sợ chết khiếp mà ngất đi).Còn tình yêu của nàng thì chưa bao giờ thay đổi. Đó mới là vũ khí, là sức mạnh của nàng để qủy vương không sao chiếm đoạt nổi: “chỉ có số mệnh của thiếp là đáng bị chê trách, nhưng những gì nằm trong vòng kiểm soát của thiếp, tức trái tim thiếp đây là thuộc về chàng”. Thật đáng kiêu hãnh, tự hào khi người phụ nữ có trái tim son sắt ấy!

Trong mối tương quan, Xi-ta ở vào một cái thế không ngang bằng với Ra-ma.

Nàng đang bị phán xét và trước mắt Ra-ma, nàng là người mắc trọng tội (tội không chung thủy), nhưng chưa một lúc nào Xi-ta cảm thấy mình đuối sức để cần đến một sự cầu xin. Có hai niềm tin mà Xi-ta dựa vào. Một là nguồn gốc xuất thân cao quý của nàng cũng y hệt như Ra-ma. Thứ hai, nàng tin vào trái tim của mình như tin vào hi vọng. Lòng tin ấy dõng dạc cất lên: “Hỡi Đức vua! Như một người thấp hèn bị cơn giận giày vò, Người đang nghĩ về thiếp như một phụ nữ tầm thường. Tên thiếp là Gia-na-ki, bởi vì thiếp có liên quan đêía lễ tế sinh của nhà vua Gia-na-ka… Vì không thể suy xét cho đúng đắn, chàng đã không hiểu được bản chất của thiếp… Tình yêu của thiếp, lòng trung thành của thiếp nay xem ra hoàn toàn vô ích!”. Nói đến điều này, Xi-ta òa khóc như một người chịu oan ức. Nàng mới là kẻ đáng thương chứ không phải Ra-ma là kẻ đáng thương.

Hành xử cuối cùng của Xi-ta là bước vào giàn lửa.

Trong tín ngưỡng của đạo Bà La Môn thì thần lửa A-nhi giữ vai trò phán xét tối cao. Lấy cái chết để giải oan là một mô típ nghệ thuật trong văn học bác học và văn học dân gian nhiều nước, nhất là các nước phương Đông. Nhưng có điều trong lời khấn thần linh, nhận ra hai giải pháp sóng đôi: nếu trong sạch thì thế này còn nếu không thì thế khác. Biết rất rõ tấm lòng mình là một dạ kiên trinh, Xi-ta cần đến thần Lửa A-nhi như một sự bao dung, che chở chứ không phải là sự phán xét đúng, sai. Tâm thế của Xi-ta vì thế mà bình tĩnh đến lạ lùng. Trong lúc ấy, mọi người lại đinh ninh là nàng sẽ chết, vì oan ức mà chết. Chính sự so le của hai thế giới quan (một thần thoại và một hiện thực) đã làm cho hành vi tử vì đạo của Xi-ta đột ngột thăng hoa trong sự cao cả tuyệt vời. Một chấn động tinh thần ghê gớm của những người chứng kiến đã xảy ra không gì kiềm giữ nổi cũng là một lẽ đương nhiên khi tiễn biệt một tâm hồn cao cả về với thần linh vĩnh viễn. Nhưng thần Lửa A-nhi đã giải thoát cho nàng. Kết thúc đầy chất lãng mạn này là sự gửi gắm một niềm tin, niềm hi vọng của con người.

Mỗi tiếng trắng thêm tơ một sợi

Sáng ra e bạc cả đầu ai

(Nghe tiếng chày đêm)

Đó là âm thanh sinh hoạt nhưng cũng là những tiếng não lòng, vì đã từ bao lâu rồi, nó là âm thanh gợi niềm thương nhớ người thân nơi phương trời giá lạnh. Nó cũng thắc thỏm một nỗi lo âu vì chiến tranh chưa dứt, bao nhiêu người lính còn trấn thủ nơi biên cương, để cho người ở hậu phương phải hối hả may áo rét gửi ra miền quan ải. Cho nên hai câu kết mà lại là mở ra nỗi âu lo buồn nhớ ấy bắc một nhịp cầu sang Thu ứng bài sau…

Từ cảnh vật đến âm thanh… tứ thơ vận hành thật tự nhiên mà thật diệu. Từ rừng núi, trời đất ngoài xa… thu về trên khóm cúc, lặn vào trong tâm tư. Đó là vận hành của không gian chở vận hành của thời gian. Trời tối dần, tầm nhìn dần thu hẹp và cuối cùng không còn thấy gì nữa, chỉ nghe thấy âm thanh dồn dập của mùa thu giã vào nỗi buồn lo nhung nhớ. Thu cảnh đã chuyển vào thu tâm. Ấy là thu hứng.

Thông qua cảm xúc trước mùa thu Ba Thục, Đỗ Phủ thể hiện nỗi lo âu cho đất nước, nỗi buồn nhớ quê hương và nỗi ngậm ngùi, xót xa cho thân phận mình.

Chùm thơ Thu hứng tiêu biểu cho nghệ thuật thơ của Đỗ Phủ, vì vậy xưa nay nó được đánh giá rất cao. Đặc biệt ở bài thơ thứ nhất, tức bài này, mỗi từ mỗi ý đều có sức kinh nhân.

Phân tích đoạn trích: Ra-ma buộc tội Trích Ra-ma-ya-na sử thi Ấn Độ – Phần I – Bài làm 4

Việc tranh đoạt người đẹp và giải cứu người đẹp là dạng dề tài quen thuộc của sử thi và đó cũng là trọng tâm, trọng diểm của Ra-ma buộc tội. Đoạn trích này là màn áp chót của câu chuyện, khi Ra-ma đã giải thoát được cho vợ mình là Xi-ta khỏi bàn tay của quỷ vương ra-va-na, và lúc hai vợ chồng được tái ngộ. Đây cũng là thời điểm mà các quy ước cộng đồng về đạo đức lên tiếng đòi hỏi phải cợ sự minh bạch, rõ ràng. Quan hệ vợ chồng không còn là điều cơ bản nữa mà là phẩm hạnh và việc chứng minh phẩm hạnh mới là điều cần thiết, mới là cơ sở nền tảng chơ sự tồn tại bền vững của cộng đồng. Do đó, kịch tính gay gắt của màn gặp gỡ trở thành trọng tâm của đoạn trích này.

1.Đặc điểm về nội dung

Đây là một cuộc tái ngộ vợ chồng sau cơn hoạn nạn. thử thách đối với họ là rất lớn bởi lẽ cả hai đều phải chứng minh danh dự của mình. cuộc gặp gỡ trở thành một phiên tòa, tạo ra thử thách cho cả hai vợ chồng.

Không gian và thời gian của cuộc gặp mặt cũng rất đặc biệt. Không gian là nơi công cộng, thời gian là ban ngày. Cuộc gặp diễn ra tại một địa diểm đông người, giữa ban ngày. Đây là kiểu không gian – thời gian công khai cho thấy tính chất khác thường của cuộc tái ngộ vợ chồng này. Số lượng nhân vật tham dự buổi gặp mặt đó rất đông liên quan tới cuộc tái ngộ đặc biệt này màn tính chất tòa án buộc tội. Đó là những người thuộc các đội quân của loài Rắc-sa-xa, loài Va-na-ra tiếp đó là quân đội của Ra-ma với sự hiện diện của các em trai Ra-ma: Vi-phi-sa-na, Lắc-ma-na, Bha-ra-ta, Xa-tru-na, và vua khỉ Xu-gri-va. Nhưng nổi lên bình diện cận cảnh là hai nhân vật Ra-ma và-xi-ta.

Nhân vật Ra-ma xuất hiện ở đây với hai tư cách, một là ông vua đứng đầu cộng đồng, hai là người chồng có vợ bị quỷ vương bắt cóc. Ra-ma đóng vai trò là người buộc tội. Cần phân biệt là ở Ra-ma có hai tư cách: tư cách của một ông vua đòi hỏi phải tuân thủ mọi quy ước của cộng đồng, đặc biệt là quy ước về danh dự cá nahan- danh dự cộng đồng và tư cách của một người chồng có vợ bị quỷ vương bắt cưỡng đoạt, người chồng đó không thể yên tâm về người vợ đã sống nghiều ngày trong xử sở quỷ vương.

Trong thời đại sử thi, danh dự của cá nhân luôn gắn liền với dnanh dự của cọng đồng, dòng dõi, Bảo vệ danh dự cá nhân cũng là bảo vệ danh dự cộng đồng và dòng dõi, đặc biệt là dối với một ông vua. Xuất phát từ hoàn cảnh của Ra-ma bị cướp vợ, Xi-ta bị bắt cóc, cho nên cả hai nhân vật đều bị đặt trước thử thách là phải kiểm định lại phẩm chất đạo đức theo đòi hỏi của ý thức cộng đồng. Cả hai đều phải tuân thủ nguyên tắc tôn trọng đạo lí cộng đồng, do đó, hai người bị đặt vào hai vị thế đối lập: người buộc tội và người bị buộc tội. Với tư cách người buộc tội, Ra-ma đã đưa ra những lập luận dựa trên nguyên tắc đạo lí cộng đồng và đi tới hành động quyết liệt là chối bỏ vợ mình.

Nhân vật Xi-ta với tư cách là phu nhân của đức Vua và là người vợ bị bắt cóc, đồng thời là người bị buộc tooil. Song, Xi –ta cũng có dòng dõi cao quý: :tên thiếp là Gia-na-ki bởi vì thiếp có liên quan đên lễ tế sinh của nhà vau Gia-na-ka chứ không phải là vì thiếp sinh ra trong gia đình đó; chỉ có nữ thần Đất là mẹ của thiếp thôi”. Như vậy dòng dõi của Xi-ta không phải là người phàm tục, mà là dòng dõi của thần linh. So với dòng dõi của Ra-ma thì sự xuất thân của Xi-ta là bội phần danh giá, Xi-ta có ý thức bảo vệ danh dự của dòng dõi thần linh của mình.

Khi bị đặt vào hoàn cảnh bất ngờ như vậy, Xi-ta – trong tư cách người bị buộc tội – cũng đưa ra những lập luận dựa trên nguyên tắc đạo lí của cộng dồng để phản bác lại, và cao hơn là lựa chọn cho mình cái chết một cách tự nguyện dể minh chứng cho sự trong trắng của bản thân. Xi-ta có niềm tin mãnh liệt vào chính bản thân mình và đồng thời khi chọn cái chết tự nguyện, cũng thể hiện rất cao quí ý thức trách nhiệm trươc cộng đồng.

Cả Ra-ma và Xi-ta đều khi bị đặt vào tình huống đối dầu ngoài ý muốn, đều đã thể hiện phẩm chất cao quý dựa trên nguyên tắc tôn trọng đạo lí cộng đồng, đều là mẫu mực của kiểu anh hùng sử thi.

2.Đặc điểm về nghệ thuật

a)Kết cấu của đoạn trích

Đoạn trích được chi làm hai phần:

+ Phần 1: Từ đầu dến “đâu có chịu đựng được lâu”): Với nội dung cơ bản là lập luận buộc tội của Ra-ma.

+ Phần 2: (phần còn lại): Lập luận tự bảo vệ, tự bênh vực của xi-ta và hành động dứt khoát buộc tội của Ra-ma.

– Phần 1, Ra-ma biểu hiện hai thái độ: một của ông vua có thần dân bị bắt có, một của người chồng có vợ bị quỷ vương chiếm đoạt. Ở đó, vấn đề danh dự cá nhân nổi lên: cá nhân bị xúc phạm, bị lăng nhục thì phải rửa mối nhục ấy. Bên cạnh tư cách một quân vương bị xúc phạm, Ra-ma còn là một người chồng bị lăng nhục. Một người chồng có vợ bỉ kẻ khác cướp đi chỉ vì người đó có sắc đẹp trời phú. Sự nhục nhã như vậy đã rõ. Song khi cứu được vợ, giải thoát vợ khỏi bàn tay quỷ vương thì sự ghen tuông cũng nổi lên. Sự nghen tuông ở đây cũng rất thường tình, nó thể hiện trước hết vì sắc đẹp của vợ mình bị người khác xúc phạm. Từ đó dãn tới hành động quyết liệt của Ra-ma: từ bỏ vợ mình, với thái độ như vậy, Ra-ma đi tới quyết định cũng ở hai tư cách Đức vua và người chồng: đó là không càn tới Xi-ta nữa, Xi-ta muốn đi đâu thì đi, Xi-ta muốn lấy ai thì lấy. Hành đồng chối bỏ Xi-ta của Ra-ma thực ra không có gì đáng trách. Hành động đó cho thấy vị quân vương luôn luôn đứng trên quyền lợi của cọng đồng luôn chứng tỏ là người chồng biết nhìn xa trông rộng, bởi lẽ tình yêu thương bao giờ cũng đi liền với danh dự, bỏ mất danh dự thì tình yêu thương chỉ còn là sự thương hại, mọt sự rẻ rúng. Hiển nhiên đi tới quyết định đó khong phải dễ dàng. Điều này thể hiện mối xung đột dữ đội bên trong củ Ra-ma: một mặt muốn cưu mang, đùm bọc Xi-ta, mặt khác, muốn bản vệ danh dự của dòng dõi mình, một mặt, tiếc thương có sắc dẹp trời ban của Xi-ta mặt khác, lại lo sợ tiếng nói của mình sẽ không có trọng lượng trước cộng đồng khi tiếp tục chung sống với người vỡ đã có thời gian ở trong nhà quỷ vương Ra-va-na. tuy có xung đột nội tâm như vậy, xong quyết định cuối cùng vẫn phải đứng trên lập trường của cộng đồng của “cái ta” để gạt bỏ cái riêng tư :cái tôi cá nhân. Đây là một vẻ đẹp của người anh hùng Ra-ma và cũng là vẻ đẹp của các anh hùng sử thi nói chung.

Một thái độ của Ra-ma đều được thể hiện công khai, không giấu giếm. Không gian dể Ra-ma đi tới quyết định có vẻ tàn nhẫn ấy là khong gian cộng đồng, song không phải là không gian lễ hội vui vẻ chan hòa mà là không gian tòa án. Xung đột bên trong Ra-ma được nhân lên và chỉ có một giải pháp duy nhất là chối bỏ Xi-ta, Ra-m,a không kết thúc cuộc đời Xi-ta, không tạo ra hình thức chết cho Xi-ta, song chối bỏ xi-ta cũng đồng nghĩa với việc giết chết Xi-ta về mặt tinh thần. Tất cả đều liên quan tới quy ước cộng đồng mà người anh hùng sử thi không có cách xử sự nào khác được.

Thu Thủy (Tổng hợp)

0