15/01/2018, 14:58

Phân tích bức tranh phố huyện nghèo trong truyện ngắn "Hai đứa trẻ" - Thạch Lam

Phân tích bức tranh phố huyện nghèo trong truyện ngắn "Hai đứa trẻ" - Thạch Lam Tài liệu ôn thi THPT Quốc gia môn Văn Phân tích bức tranh phố huyện nghèo trong truyện ngắn "Hai đứa trẻ" Nhằm ...

Phân tích bức tranh phố huyện nghèo trong truyện ngắn "Hai đứa trẻ" - Thạch Lam

Phân tích bức tranh phố huyện nghèo trong truyện ngắn "Hai đứa trẻ"

Nhằm giúp các bạn học sinh ôn thi tốt nghiệp THPT cũng như ôn thi đại học, VnDoc.com xin giới thiệu tài liệu môn văn "Phân tích bức tranh phố huyện nghèo trong truyện ngắn "Hai đứa trẻ" - Thạch Lam". Hy vọng tài liệu này sẽ giúp các bạn đạt kết quả cao trong kì thi của mình.

Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam

Phân tích hình ảnh chuyến tàu đêm chạy qua phố huyện trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam

Soạn bài lớp 11: Hai đứa trẻ

Tóm tắt tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam

Bài văn mẫu 1

Hai đứa trẻ tuy chưa phải là truyện ngắn hay nhất nhưng lại khá tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Thạch Lam: bình dị, nhẹ nhàng mà tinh tế, thâm thúy. Truyện dường như chẳng có gì: hầu như không có cốt truyện, chẳng có xung đột gay cấn, chắng có gì đặc biệt cả. Hai đứa trẻ chỉ là một mảng đời thường bình lặng của một phố huyện nghèo từ lúc chiều xuống cho tới đêm khuya, với hương vị màu sắc, âm thanh quen thuộc: tiếng trống thu không cất trên một chiếc chòi nhỏ, một ráng chiều ở phía chân trời, một mùi vị âm ẩm của đất, tiếng chó sủa, tiếng ếch nhái, tiếng muỗi vo ve... những âm thanh của mấy người bé nhỏ, thưa thớt, một quán nước chè tươi, một gánh hàng phở, một cảnh vãn chợ chiều với vỏ nhãn, vỏ thị, rác rưởi và những đứa trẻ con nhà nghèo đang cúi lom khom tìm tòi, nhặt nhạnh, một đoàn tàu đêm lướt qua... và nỗi buồn mơ hồ với những khao khát đến tội nghiệp của Hai đứa trẻ

Chuyện hầu như chỉ có thế.

Nhưng những hình ảnh tầm thường ấy, qua tấm lòng nhân hậu, qua ngòi bút tinh tế, giàu chất thơ của Thạch Lam lại như có linh hồn, lung linh muôn màu sắc, có khả năng làm xao động đến chỗ thầm kín và nhạy cảm nhất của thế giới xúc cảm, có khả năng đánh thức và khơi gợi biết bao tình cảm xót thương, day dứt, dịu dàng, nhân ái.

Đó là truyện của Hai đứa trẻ nhưng cũng là truyện của cả một phố huyện nghèo với những con người bé nhỏ thưa thớt, tội nghiệp đang âm thầm đi vào đêm tối.

Ít có tác phẩm nào hình ảnh đêm tối lại được miêu tả đậm đặc, trở đi trở lại... như một ám ảnh không dứt như trong truyện Hai đứa trẻ của Thạch Lam: tác phẩm mở đầu bằng những dấu hiệu của một “ngày tàn” và kết thúc bằng một “đêm tịch mịch đầy bóng tối”, ở trong đó, màu đen, bóng tối bao trùm và ngự trị tất cả: đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối, tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại sẫm đen hơn nữa. Một tiếng trống cầm canh ở huyện đánh tung lên một tiếng ngắn, khô khan, không vang động ra xa, rồi cũng chìm ngay vào bóng tối...

Cả đoàn tàu từ Hà Nội mang ánh sáng lướt qua trong phút chốc rồi cũng “đi vào đêm tối”...

Trong cái phông của một khung cảnh bóng tối dày đặc này, là những mảnh đời của những con người sống trong tăm tối. Họ là những con người bình thường, chỉ xuất hiện thoáng qua, hầu như chỉ như một cái bóng, từ hình ảnh mẹ con chị Tí với hàng nước tồi tàn đến một gia đình nhà xẩm sống lê la trên mặt đất, cho đến cả những con người không tên: một vài người bán hàng về muộn, những đứa trẻ con nhà nghèo cúi lom khom nhặt nhạnh, tìm tòi...

... Tất cả họ không được Thạch Lam miêu tả chi tiết: nguồn gốc, xuất thân, số phận... nhưng có lẽ nhờ thế mà số phận họ hiện lên càng thêm bé nhỏ, tội nghiệp, ai cũng sống một cách âm thầm, nhẫn nhục, lam lũ. Văn Thạch Lam là như thế: nhẹ về tả, thiên về gợi và biểu hiện đời sống bên trong: sống trong lặng lẽ, tăm tối nhưng giữa họ không thể thiếu vắng tình người. Qua những lời trao đổi và những cử chỉ thân mật giữa họ ta nhận ra được mối quan tâm, gắn bó. Và tất cả họ dường như đều hiền lành, nhân hậu qua ngọn bút nhân hậu của Thạch Lam.

Nhưng giữa bấy nhiêu con người, nhà văn chỉ đi sâu vào thế giới tâm hồn của "hai đứa trẻ": Liên và An. Chúng chưa phải là loại cùng đinh nhất của xã hội nhưng là tiêu biểu cho những con nhà lành, đang rơi vào cảnh nghèo đói, bế tắc vì sa sút, thất nghiệp.

Không phải ngẫu nhiên tác giả lấy "Hai đứa trẻ" để đặt tên cho truyện ngắn của mình. Hình ảnh tăm tối của phố huyện và những con người tăm tối không kém, sống ở đây hiện lên qua cái nhìn và tâm trạng của chị em Liên, đặc biệt là của Liên. Mở đầu tác phẩm ta bắt gặp hình ảnh Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen "đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm vào tâm hồn ngây thơ của chị" và "chị thấy buồn man mác trước cái giờ khắc của "ngày tàn". Thạch Lam không miêu tả tỉ mỉ đời sống vật chất của họ, nhà văn chủ yếu đi sâu thể hiện thế giới tinh thần của Liên với nỗi buồn man mác, mơ hồ của một cô bé không còn hoàn toàn trẻ con, nhưng cũng chưa phải là người lớn. Tác giả gọi "chị" là vì quả Liên là một người chỉ biết quan tâm săn sóc em bằng tình cảm trìu mến, dịu dàng, biết đảm đang tảo tần thay mẹ nhưng tâm hồn Liên thì vẫn còn là tâm hồn trẻ dại với những khao khát hồn nhiên, thơ ngây, bình dị.

Ở đây, nhà văn đã nhập vào vai của "hai đứa trẻ", thấu hiểu, cảm thông, chỉa sẻ và diễn tả cái thế giới tâm hồn trong sáng của chị em Liên: hình ảnh bóng tối và bức tranh phố huyện mà ta đã nói trên kia được cảm nhận chủ yếu từ nỗi niềm khao khát của hai đứa trẻ. Tâm hồn trẻ vốn ưa quan sát, sợ bóng tối và khát khao ánh sáng. Bức tranh phố huyện hiện ra chính là qua tâm trạng này: "Hai chị em gượng nhẹ (trên chiếc chõng sắp gãy) ngồi yên nhìn ra phố..." Liên trông thấy "mấy đứa trẻ con nhà nghèo ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi" nhưng "chính chị cũng không có tiền để mà cho chúng nó...". Trời nhá nhem tối, bây giờ chị em Liên mới thấy thằng cu bé xách điếu đóm và khiêng cái ghế trên lưng ở trong ngõ đi ra... Hai chị em Liên đứng sững nhìn theo" bà cụ Thi "đi lẫn vào bóng tối... "Hai chị em đành ngồi yên trên chõng đưa mắt theo dõi những người về muộn từ từ đi trong đêm"... "Từ khi nhà Liên dọn về đây... đêm nào Liên và em cũng phải ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc cây bàng với cái tối của quang cảnh phố xung quanh"... Đêm tối đối với Liên "quen lắm, chị không sợ nó nữa". "Không sợ nó nữa" nghĩa là đã từng sợ. Chỉ mất từ "không sợ nó nữa" mà gợi ra bao liên tưởng. Hẳn là Liên đã từng sợ cái bóng tối dày đặc đã từng bao vây những ngày đầu mới dọn về đây. Còn bây giờ Liên đã "quen lắm". Sống mãi trong bóng tối rồi cũng thành quen, cũng như khổ mãi người ta cũng quen dần với nỗi khổ. Có một cái gì tội nghiệp, cam chịu qua hai từ "quen lắm" mà nhà văn dùng ở đây. Nhưng ngòi bút và tâm hồn của Thạch Lam không chỉ dừng ở đấy. Cam chịu nhưng cũng không hoàn toàn cam chịu, nhà văn đã đi sâu vào cái nỗi thèm khát ánh sánh trong chỗ sâu nhất của những tâm hồn trẻ dại. ông dõi theo Liên và An ngước mắt lên nhìn vòm trời vạn ngôi sao lấp lánh để tìm sông Ngân hà và con vịt theo sau ông thần nông như trẻ thơ vẫn khao khát những điều kì diệu trong truyện cổ tích, nhưng vũ trụ thăm thẳm bao la đối với tâm hồn hai đứa trẻ như đầy bí mật, lại quá xa lạ làm mỏi trí nghĩ, nên chỉ một lát, hai em lại cúi nhìn về mặt đất, và quầng sáng thân mật xung quanh ngọn đèn lay động của chị Tí... Nhà văn chăm chú theo dõi từ cử chỉ, ánh mắt của chúng và ghi nhận lại thế thôi. Nhưng chỉ cần thế, cũng đủ làm nao lòng người đọc. Sống mãi trong bóng tối, "quen lắm" với bóng tối, nhưng càng như thế, chúng càng khát khao hướng về ánh sáng, chúng theo dõi, tìm kiếm, chỉ mong ánh sáng đến từ mọi phía: từ "ngàn sao lấp lánh trên trời", đếm từng hột sáng lọt qua phên nứa, chúng mơ tưởng tới ánh sáng của quá khứ, của những kỉ niệm về "Hà Nội xa xăm", "Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo" đã lùi xa tít tắp; chúng mải mê đón chờ đoàn tàu từ Hà Nội về với "các toa đèn sáng trưng"; chúng còn nhìn theo cả cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng xa xa mãi...

Đó là thế giới của ao ước, dù chỉ là một ao ước nhỏ nhoi, dù chỉ như là một ảo ảnh. Không thấm đượm một tấm lòng nhân ái sâu xa, không hiểu lòng con trẻ, không có một tâm hồn nhạy cảm giàu chất thơ thì không thể diễn tả tinh tế đến thế nỗi thèm khát ánh sáng của những con người sống trong bóng tối.

Đọc "Hai đứa trẻ", ta có cảm giác như nhà văn chẳng hư cấu sáng tạo gì. Mọi chi tiết giản dị như đời sống thực. Cuộc sống cứ hiện lên trang viết như nó vốn như vậy. Nhưng sức mạnh của ngòi bút Thạch Lam là ở đấy. Từ những chuyện đời thường vốn phẳng lặng, tẻ nhạt và đơn điệu, nhà văn đã phát hiện ra một đời sống đang vận động, có bề sâu, trong đó ánh sáng tồn tại bên cạnh bóng tối, cái đẹp đẽ nằm ngay trong cái bình thường, cái khao khát ước mơ trong cái nhẫn nhục cam chịu, cái xôn xao biến động trong cái bình lặng hàng ngày, cái tăm tối trước mắt và những kỉ niệm sáng tươi...

Nét độc đáo trong bút pháp Thạch Lam là ở chỗ: nhà văn đã sử dụng nghệ thuật tương phản một cách hầu như tự nhiên, không chút tô vẽ, cường điệu, và nhờ thế, bức tranh phố huyện trở nên phong phú, chân thật, gợi cảm.

Đọc " Hai đứa trẻ" ta bị ám ảnh day dứt không thôi trước đêm tối bao trùm phố huyện và xót xa thương cảm trước cuộc đời hiu quạnh cam chịu của những con người sống nơi đây. Nhưng " Hai đứa trẻ" cũng thu hút ta bởi cái hương vị man mác của đồng quê vào một "chiều mùa hạ êm như ru" và "một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát"... Nó làm sống lại cả một thời quá vãng, nó đánh thức tình cảm quê hương đậm đà, và làm giàu tâm hồn ta bởi những tình cảm "êm mát và sâu kín".

Bài văn mẫu 2

Trong nền văn học dân tộc, ít có người như Thạch Lam. Bằng những truyện ngắn tưởng như đơn giản, không có cốt truyện nhưng những gì nhà văn viết, tiếng nói nhè nhẹ của ông đã để lại những lắng sâu, những nghĩ suy, những dư âm nhẹ nhàng mà sâu sắc cho độc giả. "Hai đứa trẻ" (in trong tập "Nắng trong vườn", xuất bản năm 1938) là một truyện ngắn như thế. Dưới con mắt ngây thơ của "Hai đứa trẻ", người đọc dường như cùng nhập cuộc, cùng theo dõi, để rồi bức tranh thiên nhiên và bức tranh đời sống của phố huyện nghèo, của những con người bình dị, lam lũ hiện lên.

Trong nắng chiều dần tắt, trong cái nhập nhòe nửa sáng nửa tối và trong cái chập chờn của màn đêm bao la với vài ngọn đèn lay lắt, cuộc sống hiện lên như những vật thể nhỏ xíu, trong cái đèn kéo quân đang hết dầu chầm chậm quay, để rồi rơi tõm vào màn đêm sâu thẳm. Cảnh không có gì hấp dẫn, hoạt động của con người thì lẻ tẻ, đơn điệu nhưng bức tranh chiều thì dần dần đen lại, chập chờn mấy ngọn đèn nhưng cứ lôi cuốn người đọc dõi theo cùng cô bé Liên bởi sự quan sát, cảm nhận, nhạy cảm, ngây thơ của cô bé, bởi sự hiện lên sống động, chân thực của bức tranh đời sống phố huyện nghèo đã gây nên cảm xúc trữ tình, tạo nên cảm giác buồn thương cho người đọc.

Mở đầu câu chuyện, Thạch Lam bằng sự quan sát tài tình của mình, bằng ngòi bút tài hoa của mình đã vẽ lên một bức tranh đơn giản mà huyền ảo, gây cho ta cảm giác như lạc vào thế giới thần tiên của truyện cổ tích: "Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều. Phương Tây, đỏ rực như lửa cháy và những đám mây hồng như hòn than sắp tàn, dãy tre làng trước mắt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời". Điệp từ "chiều" được nhắc đi nhắc lại, cái bóng tối lan nhanh thấm vào tâm hồn ngây thơ của cô bé Liên, cái âm thanh "êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng" tạo nên trong Liên nỗi "buồn man mác trước thời khắc của ngày tàn". Phiên chợ đã "vãn từ lâu", "người về hết và tiếng ồn ào cũng mất", chỉ còn lại sự nghèo nàn, xa xác với những "rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá nứa", chỉ còn lại "mùi âm ẩm bốc lên", chỉ còn lại hơi nóng ban ngày, mùi cát bụi và cảnh mấy đứa con nhà nghèo lom khom đi lại, tìm tòi. Cái thế giới "cổ tích" mà nhà văn dựng lên khác nào thế giới của những cô Tấm, Lọ Lem ngày xưa! Và rồi lần lượt hiện lên tiếp theo hình ảnh của những con người nghèo khổ khác: mẹ con chị Tí xách điếu đóm, đội chõng tre dọn hàng nước mặc dầu chẳng kiếm được bao nhiêu: "gia đình bác xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau trắng để trước mặt", hàng phở của bác Siêu đến trong "tiếng đòn gánh kĩu kịt"; bà cụ Thi "hơi điên vẫn mua rượu ở hàng Liên" cất tiếng cười khanh khách lẽo đẽo đi vào trong màn đêm tối mênh mông, lay lắt như ngọn đèn trước gió của "hàng nước chị Tí". "Vũ trụ thăm thẳm bao la", "về phía huyện một chấm lửa khác nhỏ và vàng lơ lửng đi trong đêm tối, mất đi rồi lại hiện ra"; "tiếng trống cầm canh ở huyện đánh tung lên một tiếng ngắn khô khan, không vang động ra xa, rồi chìm ngay vào bóng tối". Ngày lại ngày, chiều và tối đơn điệu lặp lại sự buồn tẻ ấy như cuộc sống lầm than của người dân phố huyện này. Ánh sáng của cuộc sống ấy có chăng chỉ là sự lay lắt "chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ" như chiếc đèn của chị Tí. Sự sang trọng, vùng sáng lớn của con tàu đi qua phố huyện trong đêm chỉ lướt qua rồi mất hút vào đêm tối, chỉ là cái gì thật mơ hồ, xa lạ không biết bao giờ mới đến với cuộc đời của chị em Liên, của người dân phố huyện này.

Không một lời phê phán, không một sự lên án, không đặt ra một câu hỏi, ngòi bút tài hoa của Thạch Lam chỉ miêu tả đời sống thật, đời sống tối tăm, không hi vọng của người dân một vùng quê, một phố huyện nghèo mà sao làm nhức nhối chúng ta, gieo vào lòng ta một sự hoài nghi về xã hội thời nhà văn sống. Đóng góp như thế cho cuộc đời, cảm thông như thế cho thân phận con người, miêu tả như thế trong tác phẩm của mình, tâm hồn nhà văn đẹp đẽ biết bao, giá trị văn học mà Thạch Lam sáng tạo tài hoa và đáng trân trọng biết bao. Chúng ta xếp Thạch Lam vào những tên tuổi lớn của văn học nước nhà giai đoạn 1930 - 1945, độc giả biết ơn nhà văn đã viết những trang sách cho đời và coi ông như một trong những cây bút truyện ngắn bậc thầy thật đúng với tài năng của ông, đúng như tuyên bố của nhà văn với độc giả: "Đối với văn chương không phải là một cách mang đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên, trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho người đọc thêm trong sạch và phong phú hơn".

Phân tích bức tranh phố huyện nghèo trong truyện ngắn "Hai đứa trẻ"

Bài văn mẫu 3

Thạch Lam là cây bút trưởng thành trong nhóm Tự lực văn đoàn với phong cách sáng tác không thể lẫn lộn với bất cứ nhà văn nào. Những trang viết của ông nhẹ nhàng, sâu lắng, man mác và dìu dặt. Đó như là những lời tâm tình thủ thỉ nhưng lại có sức ám ảnh đối với người đọc. Những câu chuyện ông kể thường không có cốt truyện, bởi mọi thứ được viết bởi một chất liệu nhẹ và sâu nhất. “Hai đứa trẻ” là một câu chuyện như vậy. Truyện ngắn này đã vẽ lên bức tranh phố huyện nghèo với những mảnh đời nghèo khó, cơ cực trong xã hội.

Thạch Lam luôn khiến cho người đọc nhận ra được sự tinh tế trong tâm hồn, trong những câu văn. Sự nhẹ nhàng đã làm nên nét độc đáo trong văn của Thạch Lam. “Hai đưa trẻ” là câu chuyện xoay quanh cuộc sống của An và Liên tại phố huyện nghèo với những công việc nhàn nhạt được lặp đi lặp lại hằng ngày. Cũng qua hai nhân vật này, tác giả muốn gửi gắm đến người đọc nhiều thông điệp về cuộc sống, về những khó khăn mà con người đã trải qua.

Chất liệu làm nền cho câu chuyện chính là khung cảnh phố huyện nghèo luôn chấp chới, ẩn hiện trong mỗi trang viết. Có lẽ chính bức tranh là gợi nên cảm hứng để Thạch Lam bày tỏ cảm xúc của mình. Và có phải đây chính là phố huyện nghèo Cẩm Giàng – nơi mà ông đã sinh ra và lớn lên.

Khung cảnh phố huyện nghèo hiện lên ở những câu văn đầu tiên “Tiếng trống thu không trên cái chợ của huyện nhỏ, từng tiếng một vang xa để gọi buổi chiều…”. Một tiếng trống vang lên trong một buổi chiều sắp tàn, và có lẽ cảnh vật và con người đang đắm chìm vào trong trạng thái lơ đãng. Tại sao tác giả lại lựa chọn một buổi chiều mùa thu để làm cảm hứng vẽ lên bức tranh phố huyện? Là do mùa thu luôn gợi buồn, gợi nhớ, gợi nhiều xúc cảm nhất. Hình ảnh hai đứa trẻ xuất hiện với những công việc thường ngày “thắp đèn” rồi “đóng quan” và ngắm nhìn đoàn tàu chạy từ Hà Nội trở về, vụt sáng lên và rồi lại rơi vào hụt hẫng.

Hình ảnh phố huyện buổi chiều tà được tác giả phác họa qua những chi tiết: “Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá khiến chị em Liên tường là mùi riêng của đất, của quê hương này. Một vài người bán hàng về muộn đang thu xếp hàng hóa, đòn gánh đã xỏ sẵn vào quang rồi, họ còn đứng nói chuyện với nhau ít câu”. Đó chính là khung cảnh của khu phố nghèo lúc ngày đã tàn, một sự héo úa, tàn phai và cả sự tiêu điều hiu quạnh hiện lên trước mắt người đọc. Có lẽ đây chính là hiện thực thời bấy giờ ở miền bắc nước ta. Mọi thứ dường như chông chênh, không điểm nhấn, không sức hút và dường như không có sự sống. Tất cả chỉ là những điều bình dị, gần gũi nhưng lại phảng phất nghèo đói.

Những câu văn mềm mại, mượt mà diễn tả một không gian đìu hiu, vắng lặng ở phố nghèo. Trên cái nền u ám đó xuất hiện bóng dáng những đứa trẻ nghèo “Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái gì có thể dùng được. Liên động lòng nhưng chính chị cũng không có tiền mà cho chúng”. Một bức tranh thêm ảm đảm hơn khi những con người nghèo khổ xuất hiện, dường như đã nhân đôi cái nghèo, cái khốn khó của mảnh đất này. Và người đọc thấy toát lên vẻ đẹp tâm hồn của Liên, thánh thiện và cao cả.

Trong bức tranh làng quê nghèo ấy còn có rất nhiều số phận khác nữa, tất cả đã tạo nên sự hỗn độn của phố huyện buổi chiều tàn. Đó là hình ảnh mẹ con chị Tí dọn hàng nhưng “chả kiếm được bao nhiêu”. Hay chính là hình ảnh của chị em Liên từ khi dọn về phố nghèo này, hai chị em bán hàng giúp cho mẹ trên một gian hàng bé thuê lại của người khác, một tấm phên nứa dán giấy nhật trình.

Những con người lẳng lặng, những con người cần mẫn lặng nhìn cái nghèo đói diễn ra trước mắt nhưng cũng không thể làm gì được.

Xen lẫn những con người nghèo khổ vật chất còn là hình ảnh bà cụ Thị bị điên vẫn thường hay mua rượu tại cửa hàng nhà liên. Hình ảnh bà cụ Thi “ngửa cổ uống một hơi sạch, đặt 3 xu vào tay liên và lảo đảo bước đi” khiến người đọc chạnh lòng về một kiếp người, một đời người dật dờ, không bến đỗ.

Giữa chốn phố huyện này, dường như ai cũng mong ngóng một chuyến tàu từ Hà Nội chạy về đây mang theo sự ồn ào, huyên náo và tấp nập hơn nữa. Có lẽ chuyến tàu có ý nghĩa to lớn đối với những phận người nơi mảnh đất này. Bởi “con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua”. Đó có thể là thế giới có sự phồn hoa ngày xưa của hai chị em Liên, có cuộc sống sung túc và bình an hơn.

Chuyến tàu có lẽ chính là ước mơ, là khát vọng được vươn ra ánh sáng của những con người tại phố huyện nghèo này.

“Hai đứa trẻ” là một câu chuyện nhẹ nhàng, không có tình huống gay cấn những lại khiến cho người đọc thấy ám ảnh về những mảnh đời, mảnh đất nghèo nàn những năm đất nước ta còn chìm trong bom đạn.

Bài văn mẫu 4

Thạch Lam (1910-1942) là một cây bút truyện ngắn rất tài hoa xuất sắc của nền văn xuôi Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. Trong văn Thạch Lam có sự kết hợp tự nhiên hài hòa giữa hai yếu tố hiện thực và lãng mạn, nên văn Thạch Lam vừa nhẹ nhàng thanh thoát vừa ý vị sâu xa. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” in trong tập “Nắng trong vườn” 1938 là một truyện ngắn đặc sắc tiêu biểu cho phong cách Thạch Lam. Truyện ngắn thông qua cái nhìn của hai đứa trẻ nhà văn đã tái hiện một bức tranh thiên nhiên và một bức tranh về đời sống của nông thôn Việt Nam trước cách mạng tháng tám. Qua hai bức tranh này nhà văn đã gợi lên được nhiều ý nghĩa xã hội sâu xa.

Thạch Lam đã chọn thời gian là “giờ khắc của ngày tàn” khi tiếng trống thu không gọi buổi chiều để miêu tả những con người nhỏ bé họ dường như càng buồn bã hơn khi chiều tàn chuyển dần sang đêm tối.

Hình ảnh mặt trời lấp ló sau rặng tre những đám mây ánh hồng, dãy tre làng đen lại, đêm phố huyện với vòm trời ngàn sao lấp lánh, đom đóm nhấp nháy bóng đêm thăm thẳm dày đặc. Khi chợ tàn thì tiếng ồn cũng mất, trên nền chợ chỉ còn lại rác rưởi và đầy vỏ thị, vỏ bưởi, lá nhãn, sự huyên náo đông vui nhường chỗ cho sự trống vắng quạnh hiu cảnh chợ tàn gây một nỗi thấm thía. Thông thường khi muốn biết kinh tế văn hóa của một vùng quê thì người ta nhìn vào cái chợ. Ở đây Thạch Lam cũng miêu tả theo quan niệm đó. Đầu tiên ông cho người đọc hình dung về một cái chợ tàn. Điều đó gợi liên tưởng đến một vùng quê rất nghèo đói và lam lũ.

Âm thanh vang lên là tiếng trống thu, tiếng ếch nhái kêu vang ngoài đồng, tiếng muỗi vo ve, tiếng hoa bàng rụng khe khẽ đã tạo nên cái buồn man mác báo hiệu một cuộc sống không có nhiều niềm vui. Mùi vị quen thuộc của các bụi, màu móc ẩm, mùi khói, mùi cỏ, mùi phân trâu ngay ngáy đó là thứ mùi vị riêng của quê hương này, mùi vị của nghèo khổ lâm than bế tắc.

Tóm lại thiên nhiên phố huyện rất êm ả nhưng thấm đậm nỗi buồn và tình cảm yêu thương trìu mến của một nhà văn luôn nặng tình với những gì là biểu hiện của hồn xưa. Nhà văn đã dùng bút pháp mượn cảnh tả tình, mượn cảnh tả người tả đời. Nhờ bút pháp này mà nhà văn đã gián tiếp dựng lên được một hình ảnh chung của bức tranh đời sống của một vùng quê nông thôn Việt Nam trước cách mạng tháng Tám.

Trong tác phẩm này ngòi bút của nhà văn tập trung đặc tả hình ảnh những cuộc đời, những con người nghèo đói, lam lũ, tối tăm và lay lắt.

Cảnh sống của con người trước hết thông qua đôi mắt của chị em Liên nhà văn đã cho xuất hiện những đứa trẻ con nhà nghèo lom khom trên nền chợ tàn. Sau khi chợ tan những đứa trẻ con nhà nghèo này đã tìm đến nền chợ nhặt những thứ còn sót lại để phục vụ đời sống của chúng, nhung vì chợ nghèo nên tàn dư của chợ chẳng có gì chúng chỉ nhặt được một vài thanh nứa, thanh tre rất ít ỏi còn sót lại trên nền chợ. Từ đó ta thấy cuộc sống của những đứa trẻ này chẳng hứa hẹn một điều gì tốt đẹp. Sự đặc tả về thân phận cuộc sống của người lao động, tác giả đã giành nhiều sự quan sát và diễn tả về mẹ con chị Tý. Chị Tý là một người nông dân suốt ngày chỉ biết “mò cua bắt tép” tối đến chị đội chõng ra dọn hàng nước bán cũng chẳng được bao nhiêu, nhưng tối nào chị cũng dọn hàng để bán và hy vọng. Cảnh sống ở phố huyện đêm nào cũng thế lại xuất hiện vợ chồng bác Xẩm nghèo ngồi trên manh chiếu rách, với cái thau trắng trước mặt để đợi chờ. Bà cụ Thi khổ lúc nào cũng đi về trong bóng tối. Khá hơn là chị em Liên có quầy hàng tạp hóa nhưng mỗi ngày cũng chẳng bán được là bao, cuộc đời cũng xập xệ trên chiếc võng nát.

Tất cả những cảnh đó đều là một cái chung đó là sự nghèo nàn tột bậc, tột cùng. Đó là một sự lam lũ tối tăm không có một chút lóe sáng với tương lai. Nhưng chúng ta đã biết con người là linh hồn của một vùng quê vùng đất. Miêu tả con người trong nghèo đói nhọc nhằn nhà văn đã gợi tả được những tầng lớp người dân nông thôn trước cách mạng tháng tám nghèo nàn thật đáng thương, thật đáng lưu tâm, thật đáng nặng lòng.

Để miêu tả bức tranh đời sống nghèo đói tối tăm nhà văn đã đặt trong cái nền bóng tối của trời đất. Mặc dù thiên nhiên thì muôn đời vẫn đẹp “một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát” những bóng đêm đó vẫn cứ ôm siết bao trùm những cuộc đời lam lũ. Để miêu tả bóng đêm này nhà văn đã dùng những chi tiết rất gợi khi thì những con đường về làng, những con đường ra ngã sông đều sẫm đen bóng tối, khi thì tất cả đều chìm vào bóng tối, khi thì trời tối sẫm đen. Bằng những chi tiết đó nhà văn đã cho giăng mắt bao trùm bóng tối lên phố huyện nghèo trong đêm tối, để nhấn mạnh sự nhỏ nhoi, leo lắt nhà văn có khi dùng hình ảnh những “hột sáng” từ dãy tạp hóa của chị em Liên phát ra những “khe sáng” từ những nhà hàng đối diện phát ra, “đóm lửa vàng” của gánh lửa bác Xiêu, có khi là “quần sáng nhỏ” từ ngọn đèn của chị Tý. Đặc biệt để nhấn mạnh những đóm sáng nhỏ nhoi leo lắt nhà văn đã miêu tả ngọn đèn của chị Tý sáng một vùng đất nhỏ đến bảy lần. Đó là một hình ảnh thể hiện sự ám ảnh về sự nhỏ nhoi, lẻ loi của ánh sáng trong đêm tối mong manh vô tận, miêu tả bóng tối bao trùm ánh sáng, ánh sáng nhỏ nhoi lay lắt trong bóng tối, nhà văn nhằm diễn đạt một bức tranh đời sống tăm tối.

Cảnh sống của con người trong “Hai đứa trẻ” không chỉ nghèo nàn tối tăm mà còn đơn điệu nhàm chán. Ngày nào cũng thế khi chợ tàn lũ trẻ nhà nghèo lại ra chợ tìm kiếm nhặt nhạnh những rát rưởi tàn dư của chợ còn sót lại. Ngày nào cũng thế chị Tý, bác phở Siêu, bác Xẩm nghèo rồi chị em Liên vẫn cứ dọn hàng và chờ đợi, khách hàng của họ không ai khác ngoài người nhà của cụ Thừa, cụ Lục đi gọi người đánh tổ tôm tạt qua. Rồi mấy bác phu xe ghé qua uống nước, cứ thế ngày này qua ngày khác nhịp điệu cuộc sống cứ diễn ra đều đặn. Từ người bán hàng đến khách hàng đều là những ông chủ lớn nhưng vẫn nghèo sát mặt đất. Cảnh sống ấy đúng như nhà thơ Huy Cận viết:

Quanh quẩn mãi cũng vài ba dáng điệu

Tới hay lui cũng từng ấy mặt người”.

Trong cảnh sống đó nhà văn Thạch Lam có miêu tả cảnh chị em Liên thức đợi chuyến tàu. Đó là thể hiện sự thức tỉnh ý thức cá nhân của những con người này muốn khát khao vươn ra ánh sáng, nhưng ánh sáng cuộc đời họ phía trước cũng giống ánh sáng đoàn tàu lửa thoáng qua chốc lát rồi lại chìm ngay vào bóng tối. Hình ảnh cuối tác phẩm, ngọn đèn con của chị Tý lại chập chờn trong giấc ngủ của Liên điều đó nhà văn cũng nhằm khẳng định những cuộc đời nơi phố huyện vẫn là những cuộc đời leo lắt, tất cả đều chìm trong bóng tịt mịt.

Thông qua câu chuyện của hai đứa trẻ con nhà nghèo nhìn phố huyện trong buổi chiều xuống và đêm đến, nhà văn đã lặng lẽ đưa ra một không gian sống của một vùng quê phố huyện nghèo trước cách mạng tháng Tám. Từ không gian sống này nhà văn đã gợi cho người đọc liên tưởng đến cảnh sống nghèo đói quẩn quanh, bế tắc của những người dân quê “trong cái giời tối đất của đồng lúa ngày xưa”. Qua cảnh sống này nhà văn Thạch Lam gián tiếp lên án giai cấp thống trị thời bấy giờ đã vô trách nhiệm với người dân quê và nhà văn cũng thể hiện tình cảm nhân đạo sâu sắc đối với họ.

0