Phân tích bài Tựa Trích diễm thi tập của Hoàng Đức Lương
Phân tích bài Tựa Trích diễm thi tập của Hoàng Đức Lương – Bài làm 1 Có những người phải sáng tác lên một tác phẩm thật sự có ý nghĩa và đi sâu vào lòng người đọc thì mới được người ta biết đến thế nhưng cũng có người chỉ sưu tầm biên soạn lại những bài thơ của người khác làm nên một cuốn ...
Phân tích bài Tựa Trích diễm thi tập của Hoàng Đức Lương – Bài làm 1 Có những người phải sáng tác lên một tác phẩm thật sự có ý nghĩa và đi sâu vào lòng người đọc thì mới được người ta biết đến thế nhưng cũng có người chỉ sưu tầm biên soạn lại những bài thơ của người khác làm nên một cuốn sách mà lại có thể được nhiều người biết đến. Không đơn giản là việc cóp của người ta lại để làm nên một quyển sách mà công việc ấy mang ý nghĩa ...
– Bài làm 1
Có những người phải sáng tác lên một tác phẩm thật sự có ý nghĩa và đi sâu vào lòng người đọc thì mới được người ta biết đến thế nhưng cũng có người chỉ sưu tầm biên soạn lại những bài thơ của người khác làm nên một cuốn sách mà lại có thể được nhiều người biết đến. Không đơn giản là việc cóp của người ta lại để làm nên một quyển sách mà công việc ấy mang ý nghĩa lớn lao đó là gìn giữ những tin hoa văn hóa thơ ca để giữ gìn nền văn hiến dân tộc. Chỉ có thế thì người ta mới biết đến chứ. Và Hoàng Đức Lương và tác phẩm trích diễm thi tập thể hiện rõ điều đó.
Trích diễm thi tập là một trong những công trình sưu tầm tác phẩm văn thơ của trí thức Việt Nam. Tuyển tập này bao gồm thơ của các nhà thơ từ đời trần thế kỉ XV đời Lê (cuối tập là thơ của chính tác giả). Việc biên soạn Trích diễm thi tập nằm trong trào lưu phục hưng dân tộc, phục hưng văn hóa của các nhà văn hóa nước ta ở thế kỉ XV.
Bài tựa của trích diễm thi tập được Hoàng Đức Lương nêu rõ nhưng quan điểm của mình và lý do biên soạn sách. Chính vì thế mà hiểu hơn được ở con người này những đức tính tốt đẹp đại diện cho phẩm chất con người Việt Nam.
Ở đoạn thứ nhất hoàng Đức Lương đã thể hiện được những nguyên nhân khiến cho thơ ca bị thất truyền. Chính những nguyên nhân ấy đã khiến cho ta biết được cần phải làm những gì để thơ ca còn mãi. Thơ ca ở đây không chỉ là thơ ca mà còn là văn hóa văn hiến dân tộc từ bao ngàn đời nay.
Trước hết là nguyên nhân chủ quan, tác giả nêu lên bốn nguyên nhân lý do khiến cho thơ ca không được lưu truyền.
Thứ nhất là nguyên nhân ít người am hiểu. chỉ có thi sĩ nhà thơ mới thấy được cái hay trong thi ca của họ mà thôi. Đồng thời cả những cái đẹp cũng chỉ có những người nhà thơ mới thấy được chính vì thế mà thơ ca không được lưu truyền, bởi vì nếu như đã không ai hiểu chỉ có những nhà thơ mới hiểu thì làm sao có thể truyền lưu được. Cái hay của thơ phải được cảm nhận bằng một tâm hồn đồng điệu với cuộc sống để rồi qua những câu thơ ấy ta thấy được những cái hay của bài thơ. Thế mà nhân dân ta không thể hiểu được thì làm sao có thể thích thơ mà lưu truyền nó cho được.
Thứ hai là người có học thì bận rộn trong quan trường và khoa cử cho nên ít có thời gian dành cho thơ ca. tác giả gọi đây là “danh sĩ bận rộn”. Thời xưa quan trường cũng giống như ngày nay đi thi đại học vậy. nếu như ngày nay mong muốn có bằng cấp để thoát nghèo thì ngày xưa cũng lao vào quan trường để được hưởng cuộc sống tốt đẹp. Thế nhưng kì thi xưa thì lại ngặt nghèo hơn bây giờ. Tất cả những người đi thi thì chỉ được chọn một người duy nhất. Chính vì thế mà quan trường hiện lên thật sự rất khó khăn, sĩ tử bận thì sẽ không thể nào bận tâm đến thơ ca được.
Thứ ba là có người quan tâm về thơ ca nhưng lại không đủ năng lượng và kiên trì. Đây là nguyên nhân “thiếu người tâm huyết”. Sự tâm huyết đối với một người làm nghề thơ ca hay biên soạn là một yếu tố quyết định rất lớn cho nên thiếu tâm huyết kiên trì thì làm sao có thể hiểu được cái hay cái đẹp của thơ ca.
Thứ tư là triều đình chưa quan tâm và nguyên nhân này tác giả đặt tên là “chưa có lệnh vua”. Triều đình khi ấy cũng bận lo triều chính và cuộc sống của nhân dân cho nên không quan tâm đến thơ ca nhiều. các bậc minh quân cũng phần lớn là quan tâm đến sự bảo vệ và xây dựng quốc gia là chính.
Không những thế việc thất truyền thơ ca còn do nguyên nhân khách quan mà chủ yếu ở đây là thời gian và bom đạn. Chúng ta không thể nào biết được những sức hủy diệt của chiến tranh không chỉ là chết người mà nó còn mang đi cả những thơ ca nữa. Thời gian làm cho thơ ca bị mai một đi không còn ai nhớ đến bài thơ đó nữa.
Sang đoạn tiếp theo Hoàng Đức Lương thể hiện những động cơ thôi thúc ông làm nên việc biên soạn của ông. Động lực ấy chính là do thơ ca Việt nam không có những sách vở tra cứu. Vả lại nếu như Hoàng Đức Lượng muốn làm thơ thì phải dựa vào thơ Đường chính vì thế mà ông ý thức được việc sưu tầm. Không những thế còn xuất phát từ những nhu cầu bức thiết trong việc gìn giữ những văn hiến của dân tộc. Có thể nói việc làm của ông là hết sức lớn lao nó mang tầm vóc của một dân tộc với nền văn hiến cần được gìn giữ phát huy.
Tiếp đến Hoàng Đức Lượng bày tỏ những khó khăn trong việc sưu tầm biên soạn lại thơ ca của ông cha. Và chính từ những khó khăn ấy mà ông thể hiện được những động lực để cho ông vượt qua những khó khăn ấy. Niềm động lực ấy chính là niềm tự hào tự tôn về những giá trị của dân tộc. Đồng thời nó còn là ý thức trách nhiệm của cá nhân tác giả về giữ gìn bảo vệ những văn hóa. Và ý thức độc lập tự cường của ông trong việc biên soạn sưu tầm.
Không những thế ông còn nêu lên những ý kiến giống mình như Nguyễn Trãi trong bình ngô đại cáo có viết:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”
Chính nguyên nhân ấy đã khiến cho chúng ta nhớ ta biết được những tâm tư của Hoàng Đức Lương với những người xưa. Họ đều ý thức được việc gìn giữ văn hiến dân tộc.
Như vậy Hoàng Đức Lượng đã thể hiện được tầm quan trọng của việc sưu tầm những bài thơ của ông cha ta. Nguyên nhân thất truyền có cả những chủ quan và khách quan. Trích diễm thi tập đã thể hiện được tâm huyết của những người như Hoàng Đức Lượng về việc gìn giữ văn hóa dân tộc.
– Bài làm 2
Bài Tựa Trích diễm thi tập do tác giả Hoàng Đức Lương tự viết cho công trình sưu tầm những bài thơ có giá trị từ thời Trần đến thời Lê của mình. Đây là tuyển tập thờ gồm 6 quyển, ra đời sớm nhất ở nước ta và đã được khắc ván in thành sách dưới thời Hồng Đức do vua Lê Thánh Tông trị vì.
Qua bài Tựa, tác giả nói rõ về quá trình tuyển chọn những bài thơ hay và thể hiện niềm tự hào, sự trân trọng và ý thức bảo tồn di sản văn học dân tộc của bản thân.
Bố cục bài Tựa có thể chia làm hai đoạn:
Đoạn 1 : Từ đầu đến… không rách nát tan tành: Những nguyên nhân khiến cho thơ ca không được lưu truyền rộng rãi.
Đoạn 2: Phần còn lại: Tác giả trình bày lí do biên soạn sách; thuật lại quá trình hoàn thành cuốn Trích diễm thi tập, giới thiệu sơ lược nội dung và kết cấu của cuốn sách.
Muốn hiểu được văn bản này, trước hết chúng ta phải tìm hiểu bài Tựa là gì?
Tựa là bài viết thường được đặt ở đầu cuốn sách nhằm giới thiệu mục đích, nội dung, quá trình hình thành và kết cấu của cuốn sách. Bài Tựa có thể do tác giả tự viết, cũng có thể do một ai đó vì yêu quý, mến mộ tác giả, tác phẩm mà viết. Cuối bài Tựa thường ghi họ tên, chức tước của người viết và ngày tháng, địa điểm viết, phần này gọi là lạc khoản. Ngoài các nội dung trên, riêng bài Tựa cuốn Trích diễm thi tập còn cho biết đôi nét về thời đại, về quan niệm văn chương của tác giả.
Lời văn trong bài Tựa có tính chất thuyết minh, có sự kết hợp giữa nghị luận với tự sự và mang đậm sắc thái trữ tình.
Phần thứ nhất: Nguyên nhân khiến thớ ca các thời đại trước thế kỉ XV không được lưu truyền lại đầy đủ.
Tác giả Hoàng Đức Lương cho rằng: sở dĩ thơ văn không được lưu truyền rộng rãi bởi sáu lí do, trong đó có bốn lí do chủ quan và hai lí do khách quan. Bốn lí do chủ quan là:
Lí do thứ nhất: Chỉ thi nhân mới thấy được cái hay, cái đẹp của thơ ca. Tác giả lấy một ví dụ cụ thể là đối với miếng ăn ngon, hay một tấm vải đẹp (gấm vóc), thì người thường cũng nhận biết, thưởng thức được vị ngon và vẻ đẹp. Nhưng đối với thơ ca được ví như sắc đẹp ngoài cả sắc đẹp, vị ngon ngoài cả vị ngon, không thể đem mắt tầm thường mà xem, miệng tầm thường mà nếm được. Ông khẳng định thơ ca là sản phẩm tinh thần rất đặc biệt, chỉ thi nhân là có thể xem mà biết được sắc đẹp, ăn mà biết được vị ngon ấy thôi, vì thế làm cho thơ văn không lưu truyền hết ở trên đời.
Lí do thứ hai: Nhiều người có học nhưng lại ít ai để ý đến thơ ca. Thơ ca của các tác giả thời Lí, Trần đã góp phần tô đẹp nền văn hiến Đại Việt, nhưng các bậc danh nho làm quan to vì bận rộn công việc triều đình mà không rỗi thì giờ để biên tập; còn các quan viên cấp thấp vì lận đận lo về khoa trương nên không để ý, khiến thơ văn không lưu truyền hết ở trên đời.
Lí do thứ ba : Người quan tâm đến thơ ca thì lại không đủ năng lực và tính kiên trì. Cũng có người đã từng sưu tập thơ ca, nhưng vì thấy trách nhiệm nặng nề, rồi lượng sức mình yếu kém nên bỏ dở, khiến thơ văn không lưu truyền hết ở trên đời.
Lí do thứ tư: Chính sách quản lí in ấn của triều đình quá ngặt nghèo. Chỉ nhà chùa mới được tự do khắc ván in kinh sách, còn các nhà Nho, nếu chưa được lệnh vua, không dám khắc ván lưu hành, khiến thơ văn không lưu truyền hết ở trên đời.
Hoàng Đức Lương đã sử dụng phép liệt kê và phép quy nạp trong lập luận để thuyết minh và giải thích bốn nguyên nhân khiến thơ văn không lưu truyền hết ở trên đời.
Ngoài bốn lí do chủ quan nêu trên còn có hai ũ do khách quan là: Thời gian làm hủy hoại sách vở và binh lửa (chiến tranh, hỏa hoạn,…) làm tiêu hủy thư tịch.
Thời gian trôi qua đã quá lâu cộng thêm nạn binh lửa làm cho các văn bản bị tiêu hủy. Tác giả so sánh và nhấn mạnh bằng những hình ảnh có sức gợi cảm lớn : bền như đá như vàng, lại được quỷ thần phù hộ, cũng còn tan nát trôi chìm. Huống chi bản thảo sót lại, tờ giấy mỏng manh để trong cái níp cái hòm, trải qua mấy lần binh lửa, thì còn giữ mãi thế nào được mà không rách nát tan tành ?
Điều mà Hoàng Đức Lương gọi là trải qua bao cơn binh lữa là điều có thật. Đời Trần, năm 1371, quân Chiêm Thành có lần đánh chiếm ra tới Thăng Long, đã đốt phá, cướp bóc lấy đi nhiều giấy tờ, sách vở. Quân Minh năm 1407, khi sang xâm lược nước ta đã nhận được đạo chỉ cửa Minh Thành Tổ (hoàng đế triều Minh) về việc đốt phá, cướp bóc tất cả các di tích văn hóa, lịch sử ở nước ta như bia, kí, sách vở nói chung. Trừ kinh sách của đạo Phật, đạo Lão thì không tiêu hủy, ngoài ra hết thảy mọi sách vở, văn tự cho đến cả những loại sách ghi chép ca lí dân gian hay sách dạy trẻ cũng bị đốt hết. Những bia đá do Trung Quốc dựng từ xưa đến nay thì chúng đều giữ gìn cẩn thận, còn các bia do nước Nam dựng thì chúng phá hủy tất cả.
Sáu lí do trên dẫn đến một thực trạng đau xót, làm tổn thương đến lòng tự tôn, tự hào dân tộc của tác giả.
Phần thứ hai: Trình bày lí do biên soạn sách; thuật lại quá trình hoàn thành Trích diễm thi tập; giới thiệu nội dung và kết cấu của tác phẩm.
Hoàng Đức Lương không trình bày lí do này ngay ở phần mở đầu mà ông lại đặt xuống sau phần một là vì muốn đưa người đọc đến nhận thức rằng: Trích diễm thi tập ra đời không phải do ý muốn chủ quan của tác giả, mà là do yêu cầu của thời đại. Vì thế nên tác giả trình bày thực trạng tình hình di sản thơ ca Việt Nam thời bấy giờ trước, sau đó mới trình bày lí do biên soạn:
Đức Lương này học làm thơ, chỉ trồng vào thơ bách gia đời nhà Đường, còn như thơ văn thời Lí – Trần, thì không khảo cứu vào đâu được. Mỗi khi nhặt nhạnh ở giấy tàn, vách nát được một vài câu, thường cầm sách than thở, có ý đổ lỗi bậy cho hiền nhân quân tử lúc bấy giờ. Than ôi ! Một nước văn hiến, xây dựng đã mấy trăm năm, chẳng lẽ không có quyển sách nào có thể làm căn bản, mà phải tìm xa xôi để học thơ văn đời nhà Đường. Như thế chả đáng thương xót lắm sao.
Tác giả bộc lộ tâm trạng đau xót của mình trước hiện trạng đáng buồn của đất nước. Từ những suy ngẫm tâm huyết như trên, tác giả đã bắt tay vào sưu tầm thơ ca, tuyển chọn thành cuốn Trích diễm thi tập.
Hoàng Đức Lương thuật lại quá trình làm cuốn sách này và giới thiệu sơ lược về nội dung, kết cấu của cuốn sách. Việc sưu tầm thơ ca hết sức khó khăn, vất vả. Trước hết, các thư tịch cũ không còn, tác giả phải nhặt nhạnh ở giấy tàn, vách nát, tìm tòi khắp nơi, thu lượm thêm thơ ca của các vị hiện đang làm quan trong triều rồi phân loại và chia thành sáu quyển, gồm hai phần: phần chính là thơ ca của các tác giả từ thời Trần đến đầu thời Lê ; phần Phụ lục là một số bài thơ do tác giả sáng tác với mục đích là để làm sách dạy trong gia đình. Hoàng Đức Lương khiêm nhường bày tỏ: Tôi không tự lượng sức mình, muốn sửa lại điều lỗi cũ, quên rằng sách cũ không còn bao nhiêu, trách nhiệm nặng nề mà tài hèn sức mọn, tìm quanh hỏi khắp nhưng số thơ thu lượm được cũng chỉ là một hai phần trong số muôn nghìn bài. Tôi còn thu lượm thêm thơ của các vị hiện đang làm quan trong triều, chọn lấy bài hay, chia xếp theo từng loại, được sáu quyển, đặt tên sách là “Trích diễm thi tập”. Ở cuối các quyển ấy, mạn phép phụ thêm những bài vụng về do tôi viết, cốt để làm sách dạy trong gia đình. Rồi những người thích bình phẩm thơ ca sẽ đem truyền rộng, may ra tránh được lời chê trách của người đời sau, chẳng khác gì hiện nay ta chê trách người xưa vậy.
Bài Tựa “Trích diễm thi tập”được tác giả Hoàng Đức Lương trình bày một cách sáng sủa và lôgíc. Cái tài và cái tâm của ông đã góp phần to lớn vào việc bảo tồn di sản thơ ca của dân tộc. Đây là một công trình văn học có giá trị, góp phần tôn vinh nền văn hiến lâu đời của quốc gia Đại Việt.