24/05/2017, 12:00

Phân tích bài thơ ‘Đồng chí''của Chính Hữu.

Đồng chí được vun đắp bời tình cảm hậu phương (giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính). Đoạn thơ tiếp tục những chi tiết khác nhau để làm nổi bật tinh thần ... Bài làm Bài thơ như là lời nói chuyên tâm tình thù thỉ của hai người chiến sĩ trong một đêm rét chung chán. Có hai ...

Đồng chí được vun đắp bời tình cảm hậu phương (giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính). Đoạn thơ tiếp tục những chi tiết khác nhau để làm nổi bật tinh thần ...

Bài làm

Bài thơ như là lời nói chuyên tâm tình thù thỉ của hai người chiến sĩ trong một đêm rét chung chán. Có hai nhân vật trữ tình là ‘anh’‘tôi’ với những nét riêng của từng người và những nét chung của cả hai người. Một điểu thú vị là nếu đem thay tất cả những chỗ của ‘anh’ bằng ‘tôi’ (và đĩ nhiên ‘tôi’ lại được thay bằng ‘anh’) thì cả về vần lẫn nhịp lẫn nội dung tư tưởng của bài thơ hầu như không thay đổi. Sự hoán vị ấy thực hiện được dễ dàng chính bời vì ‘anh’‘tồi’ rất giống nhau, vì tác giả không nhằm mục đích nói về nét riêng, nét cá thể, của ‘anh’ và cùa ‘tôi’. Cái đích mà tác giả hướng tới là đồng chí, là gương mặt tinh thần của đội quân cách mạng thời bấy giờ Vì thế mà khi đọc bài thơ, ta thấy có anh, có tôi, có đôi tri kỷ, có người áo rách vai, có người quần vài mành vá, có bàn chân không giày. Những chi tiết thơ rất chọn lọc gợi nhớ ngay vê một thời các chiến sĩ vừa rời luống cày, mảnh ruộng ‘áo vải chân không đi lùng giặc đánh’. Nhưng bài thơ không hề dừng lại ở những nét bề ngoài của các chiến sĩ qua ‘anh’ qua ‘tôi’, nhà thơ muốn qui nạp, muốn khái quát lên những nét chung nhất cho quê hương, làng mạc, anh và tôi, dần dần gần gũi nhau, thân thiết nhau, gắn bó với nhau và nhòa lẫn trong nhau. Điều này thấy rõ trong cả cấu trúc từng câu thơ và cả đoạn thơ.

Quê hương anh...

Làng tôi...

Sự sóng đói ở cả hai câu thơ của anh và tôi dẫn đến sự gần gũi ‘anh với tôi’ trong cùng một câu thơ, tiếpđó là đôi người - thành một đôi, nhưng là ‘đôi người xa lạ’ — Sau đó mới là ‘dôi tri kì’. Và cuối cùng sau những gắn bó ‘súng hèn súng đẩu sát bên đầu’ sau những ‘đôi tri kì’ là một tình cảm mới mẻ nhất thiêng liêng nhất gắn bó tất cả mọi người đồng chí. Hai từ ‘Đồng chí'mới mẻ đó đã như là sự kết tinh, sự tụ hội những gì tốt đẹp và tinh hoà trong tình cảm xã hội của con người. đồng chí là tri kì, nhưng cao hơn tri kỉ, mới hơn tri kỉ vì nó là tình cảm cùa một đội quân đông đào những người chân đất áo nâu, nó là tình bạn chiến đấu của những người cách mạng.

Đoạn hai của bài thơ lại quay trờ về lại những cái nét riêng, những con người gắn bó với nhau bằng tình đồng chí. Đồng chí được xây dựng từ những con người của mọi miền quê, từ một làng nghèo ‘đất cày lên sỏi đá’ của một vùng trung du hay miền núi, tới một vùng ‘nước mặn đồng chua’ đồng bằng ven biển. đồng chí được hình thành trong khi kể vai sát cánh ‘súng bên súng đầu sát bên đầu’.

Đồng chí được thử thách bằng những thiếu thốn, bệnh tật (áo rách vai, quần vá, chân không giày. Sốt run người vầng trán trớt mổ hôi.)

Đồng chí được vun đắp bời tình cảm hậu phương (giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính). Đoan thơ tiếp tục những chi tiết khác nhau để làm nổi bật tinh thần

Đồng chí của những chiên sĩ, một lẩn nữa ‘anh’‘tôi’ lại hòa lẫn vào gương mật chung của đồng chí, đồng đội:

‘Miệng cười buốt giá,

Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy hàn tay’

Những câu thơ không rõ chù thể này chính là nói về đồng chí - điểm sáng ngời trong tâm hồn các chiến sĩ vô danh. Chi một hành động tay nắm lấy bàn tay mà biết bao ý nghĩa. Tình cảm đồng chí là thế đấy, biểu lộ rất mộc mạc, không ổn ào, nhưng lắng sâu thám thìa. Bàn tay nói lời im lăng của sự đoàn kết, sự gắn bósự cảm thông, và cả niềm hứa hẹn lập công.        

Những dòng thơ cuối cùng như một tượng đài sừng sững cho tình cảm đồng chí  thiêng liêng. Trên nén hùng vĩ cua thiên nhiên, cánh rừng trải rộng, bầu trời lồng lộng, người chiến sĩ đứng với khẩu súng và vầng trăng. Đây là một binh ảnh thực trong những đêm phục kích cùa tác giả, nhưng chính tầm cao tư tưởng và lí tưởng chiến đấu cùa quân đội cách mạng đã tạo cho hình ảnh đó -một vẹ/dẹp khái quát, tượng trưng.

Nguồn:
0