Phân tích bài phú sông bạch đằng của Trương Hán Siêu – Văn mẫu hay lớp 10
Xem nhanh nội dung Em hãy phân tích bài thơ “Phú sông Bạch Đằng” của tác giả Trương Hán Siêu để thấy được phong cách nghệ thuật sáng tạo độc đáo của ông – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Bắc Ninh Tình yêu thiên nhiên, cảnh vật non sông gấm vóc quê ...
Xem nhanh nội dung
Em hãy phân tích bài thơ “Phú sông Bạch Đằng” của tác giả Trương Hán Siêu để thấy được phong cách nghệ thuật sáng tạo độc đáo của ông – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Bắc Ninh
Tình yêu thiên nhiên, cảnh vật non sông gấm vóc quê hương vốn không phải là một đề tài mới mẻ. Trong các trang thơ đã có rất nhiều những nhà văn, nhà thơ thể hiện rất thành công đề tài này. Nhưng ở trong mỗi tác phẩm thơ văn thì các nhà văn, nhà thơ lại thể hiện với những sắc thái hoàn toàn mới mẻ, với những đối tượng miêu tả, sắc thái miêu tả hoàn toàn khác nhau, mang đặc trưng riêng của phong cách mỗi nhà thơ. Cũng viết về cảnh sắc của thiên nhiên đất trời, nhà thơ Trương Hán Siêu đã thể hiện tình yêu cũng như niềm tự hào trước vẻ đẹp của đất nước, mà đối tượng ở đây là con sông lịch sử, con sông hào hùng của dân tộc Việt Nam, con sông Bạch Đằng. Tình yêu ấy, niềm tự hào ấy của nhà thơ được thể hiện rõ nét qua bài phú “Phú sông Bạch Đằng”.
Khi khi đã giành được độc lập, vua quan thời hậu Trần chỉ biết đắm mình trong cuộc sống hưởng lạc, ăn chơi trác táng mà không hề đoái hoài đến việc dân, việc nước. Trước thực trạng ấy, Trương Hán Siêu đã vô cùng đau lòng, ông đã quyết định đi ngao du sơn thủy. Và trong một du ngoạn sông Bạch Đằng, con sông lịch sử mà quân dân nhà Trần đã hai lần đại phá quân Nguyên – Mông làm cho chúng thất bại thảm hại trên dòng sông này. Vì vậy mà con sông này như một chứng nhân lịch sử, nơi chứng kiến những thăng trầm của quân dân Đại Việt. Ngao du trên con sông lịch sử ấy đã khơi gợi cho Trương Hán Siêu biết bao nhiêu cảm xúc hào hùng của một thời kì lịch sử. Đồng thời cũng dâng lên niềm tự hào về những chiến công hiển hách của ông cha ta đời trước. Trong niềm cảm khái đó, Trương Hán Siêu đã viết lên bài “Phú sông Bạch Đằng”.
“Khách có kẻ:
Giương buồm giăng gió chơi vơi
Lướt bể chơi trăng mải miết
Sớm gõ thuyền chừ Nguyên, Tương,
Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt”
Trương Hán Siêu đã thể hiện sự cảm khái trước con sông lịch sử, khi chiến đấu nó là con sông anh hùng, nhưng vào thời bình lại là một con sông hài hòa với dòng chảy lặng lẽ, vẻ đẹp ấy tuy bình dị nhưng lại vô cùng thu hút đối với một người khách thưởng ngoạn như nhà thơ. Trong không gian rộng của dòng sông ấy, tác giả nhớ đến những người xưa “Giương buồm giăng gió mải miết”, đó là những cuộc phưu lưu đầy kì thú khi bơi thuyền chơi trăng, hay những người “Lướt bể chơi trăng mải miết”, đó là cuộc sống đầy tự tại của những con người thích phiêu du, cuộc sống “sớm gõ thuyền”, “chiều lần thăm”, những địa danh như Nguyên, Tương, Vũ Huyệt đều là những địa danh của Trung Quốc.
“Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt
Nơi có người đi đâu chẳng biết
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều
Mà tráng khí bốn phương còn tha thiết”
Tác giả đã gợi lại những con người mang trí phưu lưu, thưởng ngoạn, và những địa danh nêu ra trong bài phú cũng là địa danh quen thuộc. Tuy ở những nơi quen thuộc đó nhưng người khách du ngoạn vẫn có thể tìm được những thú vui cũng như đối tượng để khám phá, cái chí tung hoành vẫn tha thiết “Mà tráng khí bốn phương còn tha thiết”. Không chỉ nêu và ca ngợi những con người có chí thưởng ngoạn, ngao du mà Trương Hán Siêu còn thể hiện tình yêu quê hương đất nước cũng như niềm tự hào về truyền thống hào hùng của dân tộc bằng những vần thơ tha thiết nhất:
“Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều,
Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều
Bát ngát sóng kình muôn dặm
Thướt tha đuôi trĩ một màu
Nước trời một sắc, phong cảnh ba thu”
Nếu như ở trên nhà thơ viết về những địa danh của Trung Quốc thông qua những chuyến kì thú của các vị khách xưa, thì hình ảnh của con sông Bạch Đằng lại được gợi ra trong niềm tự hào, tình yêu tha thiết nhất. Nhà thơ đã mô tả lại quá trình mà mình có thể đến được con sông Bạch Đằng này, đó là qua cửa của Đại Than, và ngược dòng bến Đông Triều. Đông Triều và Đại Than đều là tên của những địa danh thuộc tỉnh Quảng Ninh, nó là con đường dẫn nhà thơ đến với sông Bạch Đằng lịch sử “Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều”, khi đến dòng Bạch Đằng dòng nước chảy xuôi và êm đềm hơn rất nhiều, xa xa đó là những con sóng kình, những con sóng này nối đuôi nhau dài đến “muôn dặm”, và trong sự cảm nhận của nhà thơ thì những con sóng này còn mang những hình dạng rất độc đáo “Thướt tha đuôi trĩ một màu”. Và cảnh sắc trên dòng sông cũng thuộc hàng kì vĩ “Nước trời một sắc, phong cảnh ba thu”.
“Bờ lau san sát, bến lác đìu hiu
Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô
Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”
Khung cảnh dữ dội, oai hùng trên sông Bạch Đằng ngày ấy, bây giờ khi độc lập đã giành được thì con sông dường như trở nên lặng lẽ hơn, thậm chí còn có chút gì đó đìu hiu, hoang vắng, khung cảnh ven bờ thì um tùm bởi cỏ lau “Bờ lau san sát, bến lác đìu hiu”, nhà thơ bỗng man mát buồn vì khung cảnh đìu hiu, hoang sơ đó “Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu”, tâm trạng buồn xen lẫn chút nuối tiếc khiến cho nhà thơ đứng lặng người ra hồi lâu. Sự yên lặng đó như để tưởng nhớ về, hoài niệm về quá khứ đã xa, đó là cái quá khứ hào hùng của nhân dân Đại Việt khi chống quân Nguyên – Mông : “Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá”, đó chính là sự hồi cố về sự oai hùng, mạnh mẽ của nhà thơ trước chặng đường lịch sử dữ dội nhưng đầy sức mạnh oai nghiêm đó. Thời gian vô tình trôi mà làm phai mờ đi những dấu vết của lịch sử, dấu vết của một thời đại anh hùng trên dòng sông Bạch Đằng huyền thoại đó: “Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”.
“Thuyền bè muôn đội, tinh kì phấp phới
Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói
Trận đánh được thua chửa phân
Chiến lũy Bắc Nam chống đối”
Vẫn trong dòng hồi tưởng về quá khứ đấu tranh oai hùng của dân tộc, nhà thơ Trương Hán Siêu đã mô tả lại một cách chân thực không khí dữ dội khi chiến đấu, đó là sự hùng hậu của các thuyền bè chiến đấu “thuyền bè muôn đội”, và cùng với đó là những lá cờ tinh kì tung bay phấp phới trên đỉnh mỗi con thuyền, mỗi chiếc bè”tinh kì phấp phới”. Đó là đội quân tinh nhuệ của ta với tinh thần chiến đấu hừng hực cùng ánh sáng chói của những đao gươm “Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói”. Và cuộc chiến đấu diễn ra trong khung cảnh ác liệt nhất khi hai bên giao chiến cân tài ngang sức, chưa phân thắng bại cuối cùng “Trận đánh được thua chửa phân”.
“Kìa
Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối
Những tưởng gieo roi một lần
Quét sạch Nam bang bốn cõi”
Tác giả đã thể hiện được tiếng cảm than “kìa” một cách đầy chế nhạo trước giấc mộng xâm lăng của đội quân Hốt Tất Liệt và Lưu Cung, đó là đội quân Mông Cổ vô cùng tinh nhuệ, mạnh mẽ, đội quân được mệnh danh là đi đến đâu thì cỏ không mọc được đến đó, ở đây chúng cũng thể hiện quyết tâm của mình khi muốn “Quét sạch Nam bang bốn cõi?” và chúng cũng tin chắc vào sức mạnh quân đội hùng hậu khi muốn đánh nhanh, thắng chắc “Những tưởng gieo roi một lần”.Ở đây, Trương Hán Siêu thể hiện thái độ chế nhạo trước hành động của bọn Hốt Tất Liệt là thật, nhưng nói về sức mạnh của đội quân tinh nhuệ của đội quân Mông Cổ cũng là thật.
“Thế nhưng
Trời cũng chiều người
Hung đồ hết lối”
Câu thơ thể hiện được sự tự hào, có chút đắc ý của nhà thơ về hành động chính nghĩa của quân dân Đại Việt, vì “Trời đã chiều lòng người”, sức mạnh của dân tộc ta cùng sự đồng lòng, thuận lợi của trời đất khiến cho bọn cướp nước phải đón nhận kết quả tất yếu, đó là thất bại “Hung đồ hết lối”. Và để thể hiện được niềm vui sướng, tự hào trước sức mạnh của dân tộc, Trương Hán Siêu đã so sánh chiến thắng trên sông Bạch Đằng của ta với các chiến thắng lừng lẫy của chính đất nước xâm lăng chúng ta:
“Khác nào khi xưa
Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay
Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi”
Như vậy, bài thơ “Bạch Đằng giang phú” của tác giả Trương Hán Siêu đã thể hiện được tình yêu nước, lòng tự hào dân tộc mạnh mẽ, đó chính là niềm tự hào trước những chiến công hiển hách,lững lẫy của quân dân Đại Việt ta. Đồng thời nhà thơ cũng tái hiện được một cách chân thực không khí dữ dội cũng không kém phần hào hùng của quân dân ta trên dòng sông Bạch Đằng, cùng với đó là niềm tự hào về chiến thắng tất yếu của đội quân chính nghĩa và sự thảm bại của đội quân cướp nước.
Phân tích bài Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu – Bài làm 2
Trương Hán Siêu tự là Thăng Phủ, quê ở làng Phúc Am, phủ Yên Khánh, nay thuộc phường Phúc Thành, thị xã Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. Ông làm quan suốt bốn đời vua Trần, từ triều đại Trần Anh Tông, Trần Minh Tông, Trần Hiến Tông đến triều đại Trần Dụ Tông. Vì tính tình cương trực và có học vấn uyên thâm nên Trương Hán Siêu được các vua Trần tin cậy và nhân dân kính trọng. Sau khi qua đời, ông được thờ ở Văn Miếu, Hà Nội.
Vào thời kì nhà Trần suy yếu, các vua đời hậu Trần mải mê với chiến thắng của cha ông, chỉ lo ăn chơi, hưởng thụ mà lãng quên trách nhiệm chấn hưng đất nước. Trong một dịp du ngoạn Bạch Đằng, một nhánh sông Kinh Thầy đổ ra biển nằm giữa Quảng Ninh và Hải Phòng, di tích lịch sử lừng danh, nơi quân ta đã hai lần đánh tan quân xâm lược Mông – Nguyên, Trương Hán Siêu vừa nhớ tiếc các bậc anh hùng xưa, vừa cảm khái, tự hào mà viết nên bài Phú sông Bạch Đằng bằng chữ Hán. Tác phẩm này được đánh giá là hay vào bậc nhất trong văn chương thời trung đại.
Nội dung bài Phú sông Bạch Đằng thể hiện lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc của tác giả trước những chiến thắng lẫy lừng của quân dân nhà Trần trên sông Bạch Đằng, đồng thời ca ngợi truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc Việt Nam. Thông qua việc đề cao vai trò và vị trí của con người trong lịch sử, đề cao đạo lí chính nghĩa, tác phẩm chứa đựng tư tưởng nhân văn sâu sắc. Bài phú vừa chứa chan niềm tự hào dân tộc, vừa thấm thía nỗi niềm hoài cổ, vừa thể hiện triết lí về sự biến thiên và xoay vần của Tạo hoá.
Bài phú là loại phú cổ thể mà đặc điểm giống như một bài ca dài, tản văn và vận văn đan xen với nhau. Nhân vật khách độc thoại và đối thoại với các vị bô lão bên sông. Hai đoạn thơ lục bát đóng vai trò kết thúc bài phú.
Mở đầu bài phú là cảm xúc của nhân vật khách trước khung cảnh hùng vĩ của sông Bạch Đằng. Đó là cảm xúc dạt dào cảm hứng lịch sử của một con người có tâm hồn phóng khoáng, tự do. Nhân vật khách chính là tác giả đã được khách thể hoá trong vai một nghệ sĩ thích ngao du, yêu mến cảnh sắc thiên nhiên, đồng thời cũng say mê tìm hiểu lịch sử oai hùng của dân tộc.
Bằng bút pháp khoa trương, cường điệu, tác giả đã nêu bật sở thích ngao du sơn thuỷ và trình độ hiểu biết, trải nghiệm sâu rộng của nhân vật trữ tình:
Khách có kẻ :
Giương buồm giong gió chơi vơi,
Lướt bể chơi trăng mải miết.
Sớm gõ thuyền chừ Nguyên, Tương,
Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt.
Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt,
Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết.
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,
Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.
Cái tráng chí bốn phương được thể hiện qua nghệ thuật liệt kê các địa danh nổi tiếng. Loại địa danh thứ nhất có tính chất ước lệ, tượng trưng lấy trong sử sách Trung Quốc. Tác giả đi thăm các danh lam thắng cảnh này chủ yếu bằng sách vở và trí tưởng tượng của mình : Nguyên, Tương, Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt…
Loại thứ hai là những địa danh quen thuộc của đất nước mà tác giả đã từng đặt chân đến như : cửa Đại Than,… bến Đông Triều,… sông Bạch Đằng… Khung cảnh thiên nhiên vùng sông nước Bạch Đằng hiện lên trước mắt tác giả mỗi lúc một rõ nét :
Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều,
Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều.
Bát ngát sóng kình muôn dặm,
Thướt tha đuôi trĩ một màu.
Nước trời một sắc, phong cảnh ba thu.
Trở lại chiến trường xưa, nơi ghi dấu bao chiến công hiển hách vào thời điểm cuối mùa thu, tác giả thấy khung cảnh thiên nhiên tuy không có gì thay đổi nhưng đã đượm vẻ lạnh lẽo, hoang vu, vì vậy mà động lòng hoài cổ:
Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu.
Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô.
Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu.
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu!
Thời gian vô tình, nghiệt ngã đã và đang làm phai mờ những dấu tích lịch sử khiến lòng người trầm lắng, suy tư. Khách đang đắm chìm trong tâm trạng hoài niệm thì các bô lão từ xa đi tới làm cho khách giật mình sực tỉnh trở về với hiện tại. Trận thủy chiến lịch sử trên sông Bạch Đằng năm xưa được các bô lão kể lại cho khách nghe một cách hào hứng.
Nếu như ở đoạn 1, khách chính là tác giả thì ở đoạn 2, các bô lão là hình ảnh tập thể, xuất hiện nhằm tạo ra vẻ tự nhiên của một cuộc trò chuyện. Đây có thể là những người dân địa phương mà tác giả gặp trên đường vãn cảnh, cũng có thể là nhân vật tác giả hư cấu để bày tỏ tâm trạng của mình một cách khách quan hơn.
Bằng thái độ nhiệt tình và hiếu khách, các bô lão kể cho khách nghe về chiến công Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã, về trận Ngô chúa phá Hoằng Thao, là những chiến thắng oanh liệt của quân dân ta trên sông Bạch Đằng.
Các trận đánh được tái hiện từ thời Ngô Quyền đến thời Trần Hưng Đạo. Điều đó cho thấy thời ấy dân tộc ta luôn phải đương đầu với quân xâm lược phương Bắc và vận nước nhiều lúc lâm nguy, ngàn cân treo sợi tóc.
Các bô lão kể lại diễn biến của từng trận đánh. Ngay từ đầu, quân ta và quân địch đã tập trung binh lực hùng hậu cho một trận đánh quyết tử. Nghệ thuật đối đã nêu bật không khí chiến trận bừng bừng :
Thuyền bè muôn đội, tinh kì phấp phới,
Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói,
Trận đánh được thua chửa phân,
Chiến lũy bắc nam chống đối.
Đó là sự đối đầu không chỉ về lực lượng mà còn là đối đầu về ý chí : quân dân ta với lòng yêu nước và sức mạnh chính nghĩa ; quân địch thì thế cường với bao mưu ma chước quỷ. Chính vì vậy mà trận chiến diễn ra ác liệt:
Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,
Bầu trời đất chừ sắp đổi.
Đây là những hình tượng kì vĩ mang tầm vóc vũ trụ, được đặt trong thế đối lập : nhật nguyệt / mờ, trời đất / đổi, báo hiệu một cuộc thuỷ chiến kinh thiên động địa.
Nguyên nhân của cuộc đối đầu quyết liệt ấy chính là mưu mô thâm hiểm của quân xâm lược phương Bắc, cho dù có khác nhau về thời gian nhưng thống nhất ở mục đích cướp nước Đại Việt bằng được:
Kìa:
Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối.
Những tưởng gieo roi một lần,
Quét sạch Nam bang bốn cõi!
Tác giả chỉ rõ sức mạnh ghê gớm của quân Nguyên – một lực lượng vô cùng tinh nhuệ dưới sự chỉ huy của Hốt Tất Liệt, đồng thời cũng nhắc lại chuyện thời Ngô Quyền, Lưu Cung tức vua Nam Hán lập chước lừa dối để nhằm xâm lược nước Nam. Chuyện Bồ Kiên nước Tần khi dẫn quân vào đánh nước Tấn huênh hoang tuyên bố: “Cứ như số quân của ta thì chỉ ném roi ngựa xuống sông cũng ngăn dòng nước lại được”. Tác giả mượn ý này để nói những đạo quân xâm lược trước đây và hiện nay đều ỷ thế quân đông tướng mạnh, đều ngạo mạn tưởng rằng chỉ một trận đánh là dẹp được bốn cõi, thu phục nước Nam. Nhưng chúng đâu có ngờ sức mạnh “Sát Thát” của quân dân nhà Trần đã được đất trời ủng hộ :
Thế nhưng:
Trời cũng chiều người,
Hung đồ hết lối!
Bằng cách sử dụng điển cố và lối nói khoa trương, tác giả đã ngầm so sánh chiến thắng trên sông Bạch Đằng với những trận thuỷ chiến vang dội nhất trong lịch sử phương Bắc:
Khác nào khi xưa :
Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay,
Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.
Hình ảnh đặc tả tan tác tro bay và hoàn toàn chết trụi nhấn mạnh tính chất khốc liệt của trận chiến và sự thất bại thảm hại của quân giặc.
Theo quy luật của trời đất, cuối cùng thì người chính nghĩa chiến thắng, còn lũ hung đồ hết lối, chuốc nhục muôn đời:
Đến nay nước sông tuy chảy hoài,
Mà nhục quân thù khôn rửa nổi!
Tái tạo công lao, nghìn xưa ca ngợi.
Hình ảnh: Đến nay nước tuy sông chảy hoài đối lập với hình ảnh Mà nhục quân thù khôn rửa nổi. Câu thơ vừa tả thực, vừa tạo sự liên tưởng so sánh thú vị. Dòng nước cứ mải miết trôi đi, thời gian qua đi, người xưa cảnh cũ rồi cũng thay đổi nhưng mưu mô xâm lược cùng thất bại của quân thù thì mãi mãi không gì gột rửa nổi. Đó là bài học đắt giá cảnh tỉnh tham vọng xâm lược phi nghĩa. Bên cạnh đó thì những câu thơ trên cũng khẳng định sức mạnh to lớn và niềm tự hào dân tộc sâu sắc của những người chiến thắng.
Thái độ, giọng điệu của các bô lão trong khi kể về chiến công Bạch Đằng đầy tự hào, tạo cảm hứng phấn khích cho tác giả. Lời kể không dài dòng mà súc tích, cô đọng, tuy khái quát nhưng vẫn gợi lại được diễn biến, không khí của trận đánh một cách sinh động. Các câu trong đoạn này tuy dài ngắn khác nhau nhưng đều mang âm hưởng hào hùng, đanh thép.
Sau lời kể về trận chiến là lời bình luận của các bô lão về chiến thắng trên sông Bạch Đằng, chỉ rõ nguyên nhân ta thắng, địch thua :
Tuy nhiên: Từ có vũ trụ, đã có giang san.
Quả là: Trời đất cho nơi hiểm trở,
Cũng nhờ: Nhân tài giữ cuộc điện an.
Đoạn thơ này nhắc lại ý thức về chủ quyền độc lập của đất nước đã được đặt ra và khẳng định trong bài thơ Thần của Lí Thường Kiệt. Một cõi sông núi nước Nam tồn tại độc lập bên cạnh các quốc gia phương Bắc, điều ấy đã được phân định rõ ràng trong sách Trời (Tiệt nhiên định phận tại thiên thư). Quan niệm về mối quan hệ giữa Thiên – Địa – Nhân (Trời – Đất – Người) cũng tiếp tục được khẳng định. Trong đó, trời đất hiểm trở giữ vai trò quan trọng, nhưng chính con người mới là chủ thể trong sự nghiệp giữ nước : Nhân tài giữ cuộc điện an. Con người làm nên chiến thắng ở đây là những tấm gương trung nghĩa, những tài năng lỗi lạc :
Hội nào bằng hội Mạnh Tân : như vương sư họ Lã,
Trận nào bằng trận Duy Thuỷ : như quốc sĩ họ Hàn.
Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng,
Bởi đại vương coi thế giặc nhàn.
Tiếng thơm còn mãi, bia miệng không mòn.
Việc Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn mở hội nghị tướng sĩ, vương hầu ở bến Bình Than cũng giống như vương sư Lã Vọng, người đời Ân, đã giúp vua Vũ hội quân các nước chư hầu ở Mạnh Tân và diệt được vua Trụ tàn ác ; tựa như bậc quốc sĩ Hàn Tín, người đời Hán, đã giúp Lưu Bang đánh tan quân Tề ở Duy Thuỷ.
Nguồn cội của chiến thắng to lớn ở Bạch Đằng chính là do tài trí sáng suốt của người lãnh đạo. Sự thật là sau hai lần thất bại, năm 1287 giặc Nguyên lại kéo sang xâm lược nước ta. Vua Trần Nhân Tông hỏi Trần Quốc Tuấn: “Giặc đến làm thế nào?”. Hưng Đạo Đại Vương tâu: “Năm nay đánh giặc nhàn ”. Cách nhìn nhận thế giặc dễ đánh không phải là thái độ chủ quan mà dựa trên tài thao lược và niềm tin vào sức mạnh toàn dân cùng kinh nghiệm trải qua hai cuộc kháng chiến trước đây. Đó là một câu nói, một chi tiết của hiện thực đã đi vào văn chương muôn đời, thể hiện được tinh thần, hào khí Đông A và tầm vóc của một dân tộc anh hùng.
Hai bài ca ở đoạn cuối là niềm tự hào về non sông hùng vĩ gắn với các chiến công lịch sử và thể hiện quan niệm của tác giả về yếu tố quyết định trong sự nghiệp đánh giặc giữ nước chính là con người.
Bài ca đầu là lời bình luận của các bô lão mang ý nghĩa tổng kết, có giá trị như một tuyên ngôn về chân lí : những kẻ bất nghĩa như Lưu Cung thì tiêu vong, còn những người anh hùng như Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo thì lưu danh thiên cổ :
Sông Đằng một dải dài ghê,
Luồng to sóng lớn dồn về bể Đông
Những người bất nghĩa tiêu vong,
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh.
Ở bài ca thứ hai, tác giả ca ngợi tài năng kiệt xuất của các vua nhà Trần đã sáng suốt chỉ đạo tướng sĩ làm nên chiến công oanh liệt trong lịch sử giữ nước của dân tộc và một lần nữa khẳng định vai trò to lớn và quyết định của con người trong chiến tranh :
Khách cũng nối tiếp mà ca rằng :
Anh minh hai vị thánh quân,
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.
Giặc tan muôn thuở thăng bình.
Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao.
Phú sông Bạch Đằng là đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn học Việt Nam thời trung đại : cấu tứ đơn giản mà hấp dẫn, bố cục chặt chẽ, lời văn linh hoạt, hình tượng nghệ thuật sinh động mang đậm tính chất triết lí. Ngôn từ vừa trang trọng, hào sảng, vừa lắng đọng, gợi cảm. Tính chất hoành tráng của bài phú thể hiện ở cảm hứng lịch sử dạt dào âm vang chiến thắng oanh liệt, ở những chứng tích gắn liền với dòng sông nổi tiếng. Có thể coi bài Phú sông Bạch Đằng là tác phẩm tiêu biểu của văn học thời Lí – Trần. Bài phú đã thể hiện lòng yêu nước và niềm tự hào về truyền thống anh hùng bất khuất và truyền thống đạo lí nhân nghĩa sáng ngời của dân tộc Việt Nam.
Phân tích bài Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu – Bài làm 3
Trương Hán Siêu là một nhân vật lớn đời Trần. Ông tên chữ Lăng Phủ, quê ở làng Phúc Am, huyện An Khánh, Ninh Bình. Trương Hán Siêu lúc trẻ làm môn khách của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, tham gia cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai và thứ ba. Ông làm quan trải qua bốn triều vua Trần (Anh Tông, Minh Tông, Hiến Tông, Dụ Tông). Trương Hán Siêu là một người học vấn uyên bác, thông hiểu sâu sắc đạo Nho, đạo Phật, lại giàu lòng yêu nước và có nhiều công lao đối với triều Trần, vì vậy ông được các vua Trần tôn kính, xem như bậc thầy.
Năm 1308, vua Trần Anh Tông phong ông làm Hàn Lâm học sĩ. Đời Minh Tông ông giữ chức Hành khiển. Đời Trần Dụ Tông, năm 1339, ông làm Hữu ti Lang trung ở Môn hạ. Đời Trần Dụ Tông đổi sang Tả Tư Lang kiêm chức Kinh Lược sứ ở Lạng Giang, năm 1345 ông được thăng chức Gián nghị Đại phu tham chính sự. Ông được vua Dụ Tông sai cùng với Nguyễn Trung Ngạn hợp soạn bộ "Hoàng Triều Đại Điển" và bộ "Hình Luật Thư". Năm 1351, ông được phong Tham tri Chính sự.
Năm 1353, ông lãnh chiếu chỉ ra trấn nhậm Hoá Châu (Huế), sai người xây thành đắp luỹ, lập kế chống quân Chiêm. Năm 1354, ông cáo bệnh xin nghỉ nhưng trên đường về Bắc chưa kịp đến nhà thì mất, sau được truy tặng Thái phó và cho phối thờ ở Văn Miếu, Thăng Long.
Sau khi mất, Trương Hán Siêu được truy tặng chức Thái phó và được đưa vào thờ tại Văn Miếu ngang với các bậc hiền triết xưa. Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam vào giai đoạn nửa sau thế kỷ XIV nảy sinh cuộc tranh giành vị trí, ảnh hưởng giữa Nho giáo và Phật giáo mà Trương Hán Siêu được coi là người đầu tiên lên tiếng phê phán đạo Phật, mở đường cho Nho giáo tiến lên. Ông còn để lại bốn bài thơ và ba bài văn “Dục Thuý sơn khắc thạch”, ”Linh TẾ Tháp ký”, ”Khai Nghiêm tự bi”, ”Bạch Đằng giang phú”,…Trong thơ văn cổ Việt Nam có một số tác phẩm lấy đề tài sông Bạch Đằng nhưng ”Bạch Đằng giang phú” được xếp vào hạng kiệt tác. Chưa rõ Trương Hán Siêu viết “Bạch Đằng giang phú”vào năm nào, nhưng qua giọng văn cảm hoài “Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá-Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”, ta có thể đoán định được, bài phú này chỉ có thể ra đời sau khi Trần Quốc Tuấn đã mất, tức là vào khoảng 1301-1354.
“Phú sông Bạch Đằng” là một kiệt tác trong văn chương cổ Việt Nam. Về mặt nghệ thuật, đây là tác phẩm thể hiện đỉnh cao của tài hoa viết phú. Về nội dung tư tưởng, Bạch Đằng Giang phú là áng văn tràn đầy lòng yêu nước, tráng chí chất ngất, cùng tinh thần tự hào dân tộc và hàm chứa một triết lý lịch sử sâu sắc khi nhìn nhận nguyên nhân thành công của dân tộc trong sự nghiệp đánh giặc giữ nước.
“Phú sông Bạch Đằng” được viết bằng chữ Hán. Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Đổng Chi, Bùi Văn Nguyên… đã dịch khá thành công áng văn này.
Ở Trương Hán Siêu, hành vi ứng xử nổi bật nhất, in đậm vào sử sách, là thái độ gần gũi thiên nhiên, cách ông nhìn ngắm thiên nhiên tạo vật. Về điều này, nếu nói Trương Hán Siêu gắn bó với cảnh trí của đất nước thì không có gì sai nhưng hình như vẫn chưa đủ. Nhà thơ nhà văn Việt Nam xưa nay rất ít người thờ ơ trước vẻ đẹp của giang sơn gấm vóc: “Nước biếc non xanh thuyền gối bãi/Đêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu” (Nguyễn Trãi). Trương Hán Siêu cũng thế thôi. Nhưng với ông, trong tình yêu thiên nhiên hình như còn có một điều gì khác hơn, một khao khát thường trực muốn chiếm lĩnh thế giới tự nhiên, nhận biết cho hết mọi tri thức lịch sử – xã hội ẩn ngầm trong ngoại giới. Như chính ông phô bày trong vai một “người khách” ở bài Bạch Đằng giang phú, hầu như cả một đời, ông đã coi lẽ sống của mình là ngược xuôi tìm đến mọi danh lam thắng cảnh:
“Khách có kẻ,
Giương buồm giong gió khơi vơi;
Lướt bể chơi trăng mải miết.
Sớm gõ thuyền chừ Nguyên, Tương,
Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt;
Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt
Nơi có người qua đâu mà chẳng biết.
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ đã nhiều
Mà tráng chí tứ phương vẫn còn tha thiết…”
Cũng có thể nghĩ đấy mới chỉ là những lời tâm niệm của Trương Hán Siêu bởi các địa danh nói trên đều là điển cố trong văn liệu, ông được đọc qua sách vở, hay là thông qua sách vở mà tìm đến chúng chứ chưa chắc đã một lần ghé thăm. Song cũng vì vậy, thiên nhiên như cái đích tìm kiếm của ông dường như có mang một hàm nghĩa thâm thúy: đây là nơi tập kết mọi trải nghiệm văn hóa của con người, và cũng là chứng tích để con người nhìn xa vào lịch sử. Vẫn trong bài phú về sông Bạch Đằng, tiếp theo mấy câu vừa dẫn, ông liền bày tỏ ý nguyện bắt chước “thú tiêu dao” của Tử Trường tức Tư Mã Thiên – nhà viết sử nổi tiếng của Trung Quốc, trước khi bắt tay cầm bút đã đi khắp mọi nơi đầu sông cuối bể nhằm nuôi dưỡng tình cảm và thu nhận kiến thức.
Ta để ý nếu ở phần trên, các địa danh thực ra đều là ảo – địa danh trong điển tích, không phải trong thực tế – thì đến đây mới là địa danh thực. Nhà thơ đưa ra một cái tên Bạch Đằng chưa hề có trong các pho sách kinh điển nhưng lại hiển hiện trước mắt với tất cả sức thuyết phục của những chiến công vang dội của nó.
Phú sông Bạch Đằng là một bài phú lưu thủy, người viết cốt biểu đạt ý tưởng một cách phóng khoáng, tuôn chảy, không quá chú trọng gò gẫm bằng trắc đối xứng và hiệp vần. Nhưng cấu trúc bài phú cũng là cả một dụng công. Bằng sự phân vai khéo léo giữa “khách” và “bô lão” trong nghệ thuật biểu hiện để tạo nên sự đồng hiện về thời gian, bằng cách chuyển đoạn thần tình trong tâm trạng người trần thuật từ bâng khuâng hoài cổ sang cảm xúc bồng bột của người đang chứng kiến sự việc tiếp diễn, bằng nghệ thuật sắp xếp ngôn từ gây âm hưởng đa dạng, vừa khoan thai thoắt đã trở nên gấp gáp, rồi lại trở lại khoan thai, và cả bằng sự sinh động của nhịp điệu… mấy trăm năm qua bài phú đã chiếm lĩnh trọn vẹn tâm hồn người đọc. Đặc biệt, không ít những bậc tự xem là tri âm tri kỷ có thiên hướng muốn đón nhận toàn bộ hình tượng nghệ thuật của bài phú như những đường nét khắc họa chân thực quang cảnh chiến trận Bạch Đằng.
Nếu để ý ta sẽ thấy bức tranh đằng đằng sát khí của trận Bạch Đằng còn là một đối cực nữa của một bức tranh thủy mạc lặng tĩnh mà tác giả vẽ lên, như đã dẫn ở một phần trước:
Thiệp Đại Than khẩu / tố Đông Triều đầu,
Để Bạch Đằng giang / thị phiếm thị phù.
Tiếp kình ba ư vô tế;
Trám diêu vĩ chi tương mâu.
Thủy thiên nhất sắc / phong cảnh tam thu
Chử địch ngạn lô / sắt sắt sâu sâu
Chiết kích trầm giang / khô cốt doanh khâu
Thảm nhiên bất lạc / trữ lập ngưng mâu
(Qua cửa Đại Than / ngược bến Đông Triều,
Đến sông Bạch Đằng / nổi trôi mặc chèo.
Bát ngát sóng kình muôn dặm/
Xanh xanh đuôi trĩ một màu.
Nước trời một sắc / phong cảnh ba thu
Sông chìm giáo gãy / gò đầy xương khô
Buồn vì cảnh thảm / đứng lặng giờ lâu
Đây lại là đối cực động-tĩnh giữa hiện tại và quá khứ. Đối cực này đã khiến người đọc như rơi vào trạng thái mơ màng, bâng khuâng, trong khi đuổi theo cái cố gắng “đi tìm thời gian đã mất” của tác giả. Ta chợt tự hỏi: Không hiểu giữa hiện hữu thứ nhất (thực tại tĩnh lặng trước mắt mà cũng là một hụt hẫng trong tâm trạng) và hiện hữu thứ hai (thực tại sống động trong tiềm thức mà cũng là một miên viễn của tưởng tượng) thì hiện hữu nào mới là có thật? Sự vấn vương ở đây có chút gì đó làm lòng ta nặng trĩu khi nghĩ đến dòng chảy của thời gian và thói vô tình dễ quên của người đời. Nói cách khác, những âm hưởng trữ tình đối lập ở trong tác phẩm đã tạo nên một ngân vang sâu thẳm và ngân vang này chính là triết lý: sự sống là một tiếp biến không ngừng không nghỉ, cái đang diễn ra và cái đã đi vào vĩnh cửu cứ đan quyện lấy nhau, mà cái nhân tố có khả năng kết nối làm nên sự đan quyện ấy, khiến cho sợi dây chuyền vô hình nghiệt ngã của thời gian có lúc tưởng như bị đảo ngược: hiện tại không hẳn đã trôi về quá khứ tất cả, mà có phần nào đó còn trôi theo chiều ngược lại, còn có “dấu vết lưu lại” với hậu thế – cái nhân tố ấy là con người, được quyết định bởi con người:
– Trời đất đặt ra nơi hiểm trở,
Bậc anh tài tính cuộc tồn an
– Giặc tan muôn thuở thăng bình,
Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao
Nhìn trở lại toàn bộ bài phú, nghệ thuật phối trí thời gian và không gian của Trương Hán Siêu đã đạt đến chỗ thần tình. Nhà thơ đưa không gian Bạch Đằng từ một viễn cảnh trải rộng và hết sức bao la đến với cận cảnh của một trận thủy chiến dữ dội, và cuối cùng dồn vào một tiêu điểm là chỗ đứng nội tâm của nhà chỉ huy quân sự quyết định sự thắng bại của chiến cuộc, đồng thời cũng chính là đang từ một không gian hiện thực ông quay trở về với không gian hồi cố, không gian tâm tưởng, cùng theo đó, thời gian nghệ thuật cũng đi lùi từ hiện tại về quá vãng. Vậy mà cảm hứng của người đọc lại không bị đẩy lùi bởi dòng hoài niệm, trái lại tiếp nhận nó như chính cái đang diễn ra trước mắt mình. Thủ pháp mờ chồng giữa hai thời đoạn cách quãng trên quang cảnh một con sông, thủ pháp hoán đổi điểm nhìn linh hoạt của tác giả… đã góp phần hóa giải tâm trạng hoài cổ của bài phú, tạo nên một tâm lý cân bằng và gây hứng thú sâu sắc trong cảm xúc thẩm mỹ.
Tóm lại, bằng lượng thông tin đa nghĩa, những ẩn ngữ phong phú đọng lại phía sau ngôn từ, Bạch Đằng giang phú đã gợi lên được nhiều tiếng nói cùng một lúc trong cảm nhận nhiều chiều của người đọc. Sự dồn nén nghệ thuật của bút pháp Trương Hán Siêu quả đã đến một trình độ bậc thầy.
Trương Hán Siêu là một danh nhân nổi tiếng của mảnh đất Trường Yên – Ninh Bình, một chứng nhân rõ rệt cho truyền thống văn hóa lâu đời của vùng đất văn vật này. Nhưng ông lại cũng là một nhân vật có tầm thước cả nước, một người con ưu tú của văn hóa Thăng Long dưới triều đại Trần. Ông xứng đáng được xếp vào hàng danh nhân tôn vinh ở Văn miếu Quốc tử giám như nhà Trần đã từng “liệt hạng” xưa kia, mặc dù ông không hề có mảnh bằng nào thông qua thi cử. Điều đó cũng nói lên rằng triều đại Trần có sức năng động lớn vì nó biết chuộng thực học, biết lựa chọn tài năng theo những tiêu chí thực tiễn. Bỏ qua mọi thứ phù danh, với những người như Trương Hán Siêu, nhà Trần đã biết cách làm cho mình trở thành bất tử.
Phân tích bài “Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu – Bài làm 4
Trong lịch sử văn học nghệ thuật Việt Nam, nhiều địa danh của đất nước đã trở thành những đề tài hấp dẫn, vì ghi dấu những chiến công vĩ đại như Hàm Tử, Chi Lăng, Đống Đa, Sông Lô… Nhưng gợi nhiều cảm hứng nhất có phải kể đến sông Bạch Đằng lịch sử – nơi đã từng diễn ra những trận đánh quyết liệt chống quân xâm lược phương Bắc. Tại đây, Ngô Quyền thắng quân Nam Hán; Lê Hoàn quét sạch quan Tống; Trần Hưng Đạo nhấn chìm đại quân Nguyên Mông. Bởi thế, chỉ nói riêng trong lịch sử văn học thời trung đại đã nhiều cây bút tên tuổi như Trần Minh Tông, Trương Hán Siêu, Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân… đều viết về nó. Nhưng thành công hơn cả là Trương Hán Siêu với bài Bài phú sông Bạch Đằng. Tác phẩm này từ lâu đã được đánh giá là bài phú nổi tiếng nhất ở đời Trần và cùng là một trong số ít bài phú xuất sắc nhất của văn học trung đại.
Đây là một bài phú có thể (hoặc còn gọi là phú lưu thuỷ), không tuân theo niêm luật chặt chẽ của Đường phú (hay còn gọi là phú đường luật), vần luật của bài phú này tương phóng khoáng, giàu nhạc điệu và dễ truyền tụng.
Bài phú sông Bạch Đằng có thể chia làm 3 đoạn: 1. Niềm vui thích du ngoạn nhất là du ngoạn trên sông Bạch Đằng; 2. Thuật lại chiến công trên sông Bạch Đằng của cha ông ta xưa; 3. Bài học rút ra trên con sông này.
Trong một bài phú, thông thường tác giả hay hư cấu thêm một số nhân vật để đối đáp, tranh luận với mình. Điều đó góp phần cho bài phú sinh động háp dẫn hơn, nhờ sự đan xen của những câu đối thoại, những câu bàn bạc: Khi thì bổ sung, khi thì bác bỏ ý kiến ban đầu. Ở Bài phú sông Bạch Đằng có những nhân vật như: khách, ta, bô lão. Thực chất, đấy chính là sự phân thân của chính tác giả, trong một thủ pháp nghệ thuật của bài phú.
Dưới đây sẽ phân tích bài phú theo cách đã nói ở trên.
Trong văn chương trung đại, thiên nhiên được miêu tả khá nhiều. Các nhà văn, nhà thơ tìm đến thiên nhiên trong những tâm trạng khác nhau. Cao Bá Quát đến với thiên nhiên để bộc lộ tâm trạng chua xót bất đắc chí. Nguyễn Bỉnh Khiêm thì đối với thiên nhiên để bày tỏ đạo lí thanh cao trước thói đời bon chen danh lợi… Ở Bài phú sông Bạch Đằng, Trương Hán Siêu đã tìm đến thiên nhiên trong một tâm trạng khác. Mở đầu bài phú, nhà thơ đưa người đọc vào một thế giới hùng vĩ, bao la của những Cửu Giang, Ngũ Hổ, Tam Ngô, Bách Việt là những nơi khách đã từng đi qua khách, tỏ ra là một con người có tâm hồn phống khoáng, tư do:
Giương buồm trong gió chơi vơi,
Lướt bể chơi trăng mải miết.
Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương,
Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt.
Khách cũng là một con người đi nhiều, biết rộng:
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ củng nhiều,
Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.
Đi nhiều, biết nhiều, nhưng trong thú tiêu hao, khách chỉ học có Tử Trường, tức là Tư Mã Thiên, nhà sử học nổi tiếng Trung Quốc, từng chu du khắp đất trung hoa rộng lớn trước khi viết bộ sử kí bất hủ.
Phải chăng khách nói đến Tử Trường để bày tỏ tâm hồn đồng điệu của mình với người xưa. Đi xa, đâu phải chỉ để tiêu dao, ngắm hoa vọng nguyệt, mà quan trọng hơn là tìm đến nơi cha ô