Nội dung của hoạt động lao động quản lý và những đặc điểm của nó
0 Nếu xét theo quan điểm của lý thuyết hệ thống và lý thuyết quản lý thì bất cứ xí nghiệp công nghiệp nào cũng là một hệ thống được tạo thành từ hai hệ thống bộ phận là hệ thống ...
Nếu xét theo quan điểm của lý thuyết hệ thống và lý thuyết quản lý thì bất cứ xí nghiệp công nghiệp nào cũng là một hệ thống được tạo thành từ hai hệ thống bộ phận là hệ thống bộ phận quản lý và hệ thốngbộ phận bị quản lý.
Hệ thống quản lý bao gồm : Hệ thống các chức năng quản lý, hệ thống các bộ phận quản lý (các phòng, ban) và những cán bộ, nhân viên làm việc trong đó ; Hệ thống các mối quan hệ quản lý và hệ thống các phương tiện vật chất - kỹ thuật, các phương pháp quản lý cần thiết để giải quyết các công việc quản lý.
Hệ thống bị quản lý là hệ thống sản xuất bao gồm các phân xưởng, bộ phận sản xuất và toàn bộ lực lượng lao động, vật tư máy móc, phương tiện kỹ thuật và phương pháp công nghệ được bố trí và sử dụng trong đó.
Nhờ có hoạt động lao động của lao động quản lý mà các chức năng quản lý được thực hiện, làm cho quản lý trở thành quá trình.
Trong xí nghiệp, lao động quản lý được phân loại theo 2 tiêu thức sau :
+ Theo chức năng : Vai trò của họ đối với việc quản lý toàn bộ quá trình sản xuất (tức là theo tính chất của các chức năng mà họ phải thực hiện)
+ Theo vai trò của họ đối với việc thực hiện chức năng quản lý.
Theo chức năng, vai trò đối với việc quản lý quá trình sản xuất thì toàn bộ lao động quản lý được phân chia thành :
- Nhân viên quản lý kỹ thuật.
- Nhân viên quản lý kinh tế.
- Nhân viên quản lý hành chính.
*Nhân viên quản lý kỹ thuật : Là những người được đào tạo ở trường kỹ thuật hoặc đã được rèn luyện trong thực tế sản xuất có trình độ kỹ thuật tương đương, được cấp trên có thẩm quyền thừa nhận bằng văn bản đồng thời phải là người trực tiếp làm công tác kỹ thuật hoặc tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn công tác kỹ thuật trong xí nghiệp gồm :
- Giám đốc hoặc phó giám đốc phụ trách kỹ thuật, quản đốc hoặc phó quản đốc phụ trách kỹ thuật, trưởng phó phòng ban kỹ thuật.
- Các kỹ sư, kỹ thuật viên, nhân viên làm ở các phòng ban kỹ thuật
*Nhân viên quản lý kinh tế : Là những người làm công tác lãnh đạo, tổ chức, quản lý các hoạt động sản xuất, kinh doanh của xí nghiệp như : Giám đốc hay phó giám đốc phụ trách kinh doanh, kế toán trưởng, các cán bộ, nhân viên công tác ở các phòng, ban, bộ phận như : Kế hoạch thống kê -kế toán tài vụ lao động - tiền lương, cung tiêu, điều độ vv... của xí nghiệp.
* Nhân viên quản lý hành chính : Là những người làm công tác tổ chức, nhân sự, thi đua, khen thưởng, quản trị hành chính, văn thư đánh máy, tổng đài điện thoại, phiên dịch phát thanh, lái xe con liên lạc, bảo vệ thường trực, phòng chữa cháy, tạp vụ, vệ sinh, lái xe đưa đón công nhân đi làm vv...
Theo vai trò đối với việc thực hiện chức năng quản lý, lao động quản lý được phân loại thành :
- Cán bộ lãnh đạo.
- Các chuyên gia.
- Nhân viên thực hành kỹ thuật.
Sự phân loại này xuất phát từ cơ sở thực tế là : Bất kỳ một chức năng quản lý nào cũng được tạo thành từ những công việc lãnh đạo (tức là những công việc tổ chức - hành chính) và những công việc chuyển bị thông tin cần thiết cho việc thực hiện các công việc lãnh đạo đó (tức các công việc kỹ thuật).
*Cán bộ lãnh đạo : Là những người lao động quản lý trực tiếp thực hiện chức năng lãnh đạo, bao gồm : Giám đốc, phó giám đốc, quản đốc và phó quản đốc, các trưởng nghành, đốc công, trưởng phó các phòng ban trong bộ máy quản lý xí nghiệp.
* Các chuyên gia : Là những lao động quản lý không thực hiện chức năng lãnh đạo trực tiếp mà thực hiện các công việc chuyên môn . Bao gồm : Các cán bộ kinh tế, kỹ thuật viên, cán bộ thiết kế và công nghệ và những người cộng tác khoa học ( nếu có ) như : Nhà toán học, tâm lý học, xã hội hoc.
*Nhân viên thực hành kỹ thuật : Là những người lao động quản lý thực hiện các công việc đơn giản, thường xuyên lập đi lập lại, mang tính chất thông tin -kỹ thuật và phục vụ bao gồm :
Các nhân viên hoạch toán và kiểm tra, các nhân viên làm công tác hành chính, các nhân viên làm công tác phục vụ.
Sự phân loại lao động quản lý (theo cả hai tiêu thức) có ý nghĩa quan trọng đối với việc nghiên cứu và đánh giá cơ cấu tỷ lệ về số lượng và chất lượng của đội ngũ lao động quản lý, phù hợp với những đặc điểm, quy mô loại hình sản xuất của xí nghiệp. Đồng thời sự phân loại đó còn cho thấy, các loại lao động quản lý khác nhau sẽ có nội dung lao động khác nhau và do đó mà đòi hỏi phải có những yêu cầu về tổ chức lao động cho phù hợp.
Các loại lao động quản lý khác nhau có những nhiệm vụ lao động khác nhau và do đó có những nội dung lao động khác nhau. Sự khác nhau đó là do sự khác nhau về chất của các chức năng quản lý quy định. Tuy nhiên, nội dung lao động của tất cả các lao động quản lý các loại đều được tạo thành từ những yếu tố thành phần sau đây.
Yếu tố kỹ thuật : Thể hiện ở sự thực hiện các công việc mang tính chất thiết kế và phân tich chuyên môn như : Thiết kế, ứng dụng sản xuất mới, phân tích, thiết kế các phương án cải tiến công nghệ sản xuất, cải tiến tổ chức lao động vv...
Yếu tố tổ chức hành chính : Thể hiện sự thực hiện các công việc nhằm tổ chức thực hiện các phương án thiết kế, các quyết định như : Lập kế hoạch, hướng dẫn công việc, điều chỉnh, kiểm tra và đánh giá công việc.
Yếu tố sáng tạo thể hiện ở sự thực hiện các công việc như : suy nghĩ tìm tòi, phát minh ra các kiến thức mới, các quyết định, các phương pháp để hoàn thành công việc.
Yếu tố thực hành giản đơn thể hiện ở sự thực hiện các công việc đơn giản, được thực hiện theo các quy định, hướng dẫn có sẵn như các công việc có liên quan đến thu nhập và sử lý thông tin, truyến tin và các công việc phục vụ.
Yếu tố hội họp và sự vụ thể hiện ở việc tham gia các cuộc hội họp về chuyên môn hoặc giải quyết các các công việc có tính chất thủ tục (ví dụ : ký duyệt giấy tờ).
Nôi dung lao động của cán bộ, nhân viên quản lý đều chứa đựng 5 thành phần này sự khác nhau chỉ là ở tỷ trọng thành phần các yêu tố đó.
Tuy nhiên, hoạt động lao động của tất cả các cán bộ, nhân viên quản lý đều mang tính chất giống nhau. Những tính chất đó hợp thành những đặc điểm chung của hoạt động lao động quản lý, quy định tính chất đặc thù của các biện pháp TCLĐKH được áp dụng.
Những đặc điểm đó bao gồm như sau:
Đặc trưng chung của hoạt đông lao động quản lý là lao động trí óc. Đặc trưng chung đó chính là đặc điểm cơ bản mà từ đó dẫn đến những đặc điểm khác của hoạt động lao động quản lý và những yêu cấu cần được lưu ý trong quá trình tổ chức lao động cho lao động quản lý các loại.
Lao động trí óc được định nghĩa là : Sự tiêu hao sức lao động dưới tác động chủ yếu về các khả năng chí tuệ và thần kinh tâm lý đối với con người trong quá trình lao động. Do đó, khi nói ‘hoạt động lao động quản lý là hoạt động trí óc” có nghĩa là : Đó là hoạt động lao động chủ yếu bẵng trí óc.
Vì là hoạt động lao động chủ yếu vì trí óc nên hoạt động lao động quản lý mang đặc tính sáng tạo nhiều hơn so với lao động chân tay. Tính sáng tạo của lao đông quản lý được thể hiện hai mức độ
Sáng tạo độc lập : Tạo ra các kiến thức, tri thức mới.
Sáng tạo trong phạm vi nhiệm vụ đã được quy định trước sáng tạo về cách thực hiện công việc.
Xuất phát từ đặc điểm lao động trí óc nên hoạt động lao động quản lý đặt ra yêu cầu cao về yếu tố thần kinh - tâm lý đối với người lao động, tức là đặt ra yêu cầu cao đối với khả năng nhận biết, khả năng thu nhận thông tin và các phẩm chất tâm lý cần thiết khác (như có tưởng tượng, trí nhớ, khả năng khái quát về tổng hợp vv...). Đồng thời trong quá trình giải quyết nhiệm vụ lao động, tức các công việc quản lý, các cán bộ nhân viên quản lý phải thực hiện nhiều mối quan hệ giao tiếp qua lại với nhau. Do đó, yếu tố tâm lý - xã hội đóng vai trò qua
n trọng trong hoạt động lao động, ảnh hưởng tới nhiệt tình làm việc, chất lượng làm việc và tiến độ thực hiện công việc của họ.
Mặt khác, đối tượng quản lý ở đây là những người lao động và các tập thể lao động nên đòi hỏi hoạt động lao động quản lý phải mang tính tâm lý - xã hội giữa những người lao động với nhau.
Trong quá trình lao động quản lý, đối tượng lao động không phải là các yếu tố vật chất thông thường mà là các thông tin kinh tế. Bằng hoạt động lao động của mình, lao động quản lý thu nhận và biến đổi các thông tin để phục vụ mục đích quản lý ở các cấp quản lý trong xí nghiệp.
Những thông tin kinh tế chưa được xử lý là đối tượng lao động của lao động quản lý còn những thông tin đã được xử lý chính là kết quả của hoạt động lao động quản lý của họ. Mặt khác, thông tin kinh tế là phương tiện để hoàn thành nhiệm vụ của tất cả lao động quản lý các loại.
Đây là một đặc điểm nổi bật của hoạt động lao động quản lý và là một khó khăn cho công tác tỏ chức lao động.
Do nội dung công việc đa dạng, khó xác định và kết quả lao động không biểu hiện dưới dạng vật chất trực tiếp (không tính được bằng các số đo tự nhiên như chiếc, cái...) Nên hoạt động lao động quản lý khó theo dõi, khó đánh giá và khó định mức.
Để nghiên cứu và phân tích tinh hình tổ chức lao động trong lĩnh vực quản lý sản xuất, việc phân loại thời gian làm việc của lao động quản lý có ý nghĩa quan trọng. Cơ sở của sự phân loại thời gian làm việc của lao động quản lý có ý nghĩ quan trọng.Cơ sở của sự phân loại thời gian làm việc của lao động quản lý cũng là cấu trúc thời gian làm việc của một người làm việc trong một ngày làm việc như đối với công nhân sản xuất trực tiếp. Tuy nhiên, do những đặc điểm của hoạt động quản lý đã nêu ở trên, đi vào chi tiết việc phân loại thời gian làm việc của lao động quản lý có những điểm khác biệt cần lưu ý.
Tương tự như với công nhân sản xuất, thời gian làm việc tổng cộng (danh nghĩa ) của lao động quản lý cũng được chia thành : Thời gian làm việc và thời gian ngưng việc ( bảng 1).
Thời gian làm việc được hiểu là thời gian trong đó lao động quản lý thực hiện một công việc thuộc một chức năng quản lý đó.
Thời gian ngưng việc là thời gian trong đó lao động quản lý không làm việc.
Bảng 1: phân loại thời gian làm việc của lao động quản lý

Bản thân thời gian làm việc được chia ra thành : Thời gian làm công việc thuộc nhiệm vụ lao động và thời gian làm công việc không thuộc nhiệm vụ lao động.
Thời gian làm công việc thuộc nhiệm vụ lao động là thời gian để thực hiện những công việc phù hợp với nhiệm vụ lao động đã được nghi trong văn bản.
Thời gian làn việc không thuộc nhiệm vụ lao động là thời gian để thực hiện những công việc có liên quan đến nhiệm vụ lao động của người khác. Nếu xét trên giác độ của nội dung lao động thì thời gian làm việc của lao động quản lý được chia ra thành : Thời gian chuyển bị và kết thúc công việc, thời gian công tác chính (hay thời gian tác nghiệp) và thời gian phục vụ nơi làm việc.
Thời gian chuyển bị và kết thúc công việc là thời gian giành cho việc chuyển bị và kết thúc một nhiệm vụ lao động. Loại thời gian này xảy ra trước khi bắt đầu và sau khi kết thúc việc thực hiện nhiệm vụ lao động, ví dụ như : Nhận nhiệm vụ, báo cáo công việc đã hoàn thành, chuyển bị các tài liệu, phương tiện kỹ thuật cần thiết trước khi làm việc và thu dọn chúng sau khi hoàn thành công việc...
Thời gian phục vụ nơi làm việc là thời gian giành cho việc chyển bị và chăm sóc thường xuyên nơi làm việc, đảm bảo các điêu kiện tổ chức, vật chất- kỹ thuật cần thiết để công việc có thể tiến hành bình thường. Ví dụ : Nhận và bàn giao ca, chuẩn bị các tài liệu, phương tiện cần thiết vào đầu ca và thu dọn chúng vào cuối ca.
Thời gian làm công tác chính (thời gian tác nghiệp) là thời gian cần thiết trực tiếp để giải quyết nhiệm vụ lao động.
Do đặc điểm của hoạt động quản lý là hoạt động trí óc có nội dung rất phong phú và đa dạng, đồng thời để giải quyết nhiệm vụ lao động, người lao động phải thực hiện nhiều loại công việc khác nhau nên thời gian tác nghiệp của lao động quản lý không được phân chia ra thời gian tác nghiệp chính và thời gian tác nghiệp phụ, như đối với công nhân sản xuất mà được phân chia ra thành các loại thời gian thực hiện các tác nghiệp lao động cần thiết để giải quyết nhiệm vụ lao động.
Tùy thuộc vào nội dung của chức năng quản lý được đảm nhận mà thời gian công tác chính của lao động quản lý bao gồm một cơ cấu nhất định 3 loại thời gian sau :
Thời gian tổ chức hành chính : Là hao phí thời gian cần thiết để tổ chức quá trình lao động và hướng dẫn kiểm tra công việc cũng như thời gian để giải quyết các công việc thủ tục - hành chính.
Thời gian sáng tạo : Là việc dành cho công việc phân tích tình hình kinh tế, tìm tòi và đề xuất các giải pháp quản lý tối ưu, thời gian chuyển bị cho các chương trình, dự án thiết kế mới hoặc thời gian để hình thành kiến thức mới, các phát minh.
Thời gian làm công việc kỹ thuật : Là thời gian để thực hiện các công việc đơn giản, thường xuyên lặp đi lặp lại, có liên quan đến việc phục vụ thông tin cho các nơi làm việc và các bộ phận quản lý.
Ngoài ra, thời gian công tác chính còn có thể được phân chia thành : Thời gian hoàn thành công việc đã được cơ khí hoá và thời gian thực hiện công việc chưa được cơ khí hoá.
Thời gian ngưng việc gồm có 3 loại
Thời gian dành cho nghỉ ngơi và nhu cầu cần thiết : Là thời gian nghỉ nhằm tránh mệt mỏi, đảm bảo khả năng làm việc bình thường, thời gian vệ sinh cơ thể và giải quyết các nhu cầu tự nhiên.
Thời gian ngưng việc do nguyên nhân tổ chức kỹ thuật : Là thời gian ngưng việc do những rối loạn trong tiến trình lao động do lý do tổ chức kỹ thuật, ví vụ như : Chuẩn bị công việc không đúng thời hạn, chuẩn bị nơi làm việc không tốt, các phương tiện kỹ thuật không hoạt động bình thường vv...
Thời gian ngưng việc do vi phạm kỷ luật lao động : Bao gồm đến muộn, nghỉ sớm trước giờ quy định, tự ý bỏ khỏi nơi làm việc vì lý do cá nhân...