18/06/2018, 12:43

Ninh Thuận - Lễ hội cúng Thần Linh

Trong hệ thống lễ hội Chăm lễ Puis, Payak là loại lễ nghi tín ngưỡng của người Chăm có từ lâu đời. Đây là lễ hội của tộc họ được tổ chức theo định kỳ 1 năm, 3 năm hoặc 7 năm một lần. Lễ Puis, Payak là hai loại lễ khác nhau, tuỳ theo phong tục thờ cúng, hệ thống thờ thần mà mỗi tộc họ tổ chức lễ ...

Trong hệ thống lễ hội Chăm lễ Puis, Payak là loại lễ nghi tín ngưỡng của người Chăm có từ lâu đời. Đây là lễ hội của tộc họ được tổ chức theo định kỳ 1 năm, 3 năm hoặc 7 năm một lần. Lễ Puis, Payak là hai loại lễ khác nhau, tuỳ theo phong tục thờ cúng, hệ thống thờ thần mà mỗi tộc họ tổ chức lễ Puis hoặc Payak để tế thần linh.-

Lễ Puis:

Lễ rước y trang Nữ thần Pô Inư Nưgar-là loại lễ nghi của tộc họ cúng để trả lễ và thết đãi thần linh (Jiư muk key) - cụ thể là lễ tế thần Po Rame. Lễ này thường được tổ chức theo định kỳ 1 năm, 2 năm hoặc 7 năm một lần khi tộc họ làm ăn được mùa, phát đạt con cháu sum họp.

Lễ Puis được tổ chức phổ biến trong tộc họ thuộc các làng thờ tháp Po Rame như Hậu sanh, Mỹ Nghiệp, Vĩnh Thuận, Vụ Bổn, Hiếu Thiện (Ninh Thuận)… Còn các tộc họ khác thờ cúng thuộc khu vực tháp Po Klaung Garai (Đô Vinh - Ninh Thuận) thì làm lễ cúng Payak. Tục lễ ấy đã có từ xưa đến nay và đã trở thành phong tục, tín ngưỡng của tộc họ. Cứ như thế khi đến chu kỳ cúng lễ hàng năm thì tộc họ phải thực hiện những lễ cúng trên.

Khi đến một chu kỳ cúng lễ Puis của tộc họ thì trưởng tộc họ (akauk gơp)có nhiệm vụ đi thông báo đến các thành viên tộc họ và góp tiền của để thực hiện lễ cúng. Khi đã đủ điều kiện về vật chất và tài chính thì ông trưởng tộc đem lễ vật (trầu, rượu) đến nhà thầy Kadhar Gru - thầy tế lễ Puis để xem ngày lành thàng tốt cúng lễ. Thông thường thì lễ Puis thực hiện được bất cứ tháng nào trong năm và phải là ngày chẳn trong tháng 3, 4, 5 trừ tháng 11 và 12 (bilan Puis, mak). Vì hai tháng này người Chăm thường cử hành lễ đăng quan, tiến chức cho các vị vua chúa cho nên phải kiêng cữ.

Sau khi được thầy Kadhar ấn định ngày tháng tổ chức lễ thì lễ Puis được diễn ra trong một nhà lễ (Kajang) trong lễ Puis có hai loại: Loại nhà lễ không có lợp mái (Kajang mưtưh danah buah) và nhà lễ lợp mái (kajang bah bauh). Tuỳ theo tộc họ có tục cúng nhà lễ nào thì dựng theo nhà lễ kiểu ấy. Ở hai nhà lễ này mặc dù hình thức khác nhau nhưng nội dung hành lễ, lễ vật hiến tế đều giống nhau. Ở đây chỉ khảo tả lại lễ Puis có hình thức nhà lễ một mái.

Trong ngày làm lễ, từ sáng sớm tộc họ tập trung đông đủ tại nhà được tổ chức lễ. Phụ nữ được phân công nhau chuẩn bị lễ vật như gói bánh, trầu cau, bánh trái… Còn đàn ông thì làm heo, gà… và dựng nhà lễ. Nhà lễ không rộng lắm (4m x 5m), chủ yếu làm bằng tre, và mái thì lợp tranh hoặc tấm bạt và mở một lối ra vào ở hướng đông - tây.

ễ vật cúng lễ Puis bao gồm:

- 1 bộ y phục đàn ông (1 cái váy trắng, 1 dây thắt lưng, 1 cái áo sah, 1 cái khăn đội đầu) và 1 bộ trang phục đàn bà (1 cái váy trắng, 1 dây thắt lưng, 1 cái áo, 1 cái khăn đội đầu). Hai bộ trang phục này được treo lên trước bàn tổ trong nhà lễ (Kajang).

- Ngoài trang phục lễ, lễ vật dâng cúng còn có cơm canh, rượu trứng, cá khô, bánh chakun (bánh hấp bằng bột gạo), cơm rượu (tapai thanh) và 3 chén rượu cần (ia tapay) và hoa quả…

Tất cả những lễ vật được sắp xếp theo mâm lễ. Tùy theo lễ cúng vị thần nào mà mâm lễ vật được xếp trên mâm 5 tầng, 7 tầng, 8 tầng hoặc 9 tầng. Mỗi tầng lễ vật được sắp xếp xen kẽ nhau bao gồm: bánh tét (pay nung), bánh chakun (kur), bánh tráng (pay Chăm), cá khô (rik), chuối (patey)… Tổng cộng tất cả 16 mâm lễ, trong đó hai mâm xếp 9 tầng (kaya salipan), 2 mâm xếp 7 tầng (kaya tajuh), 4 mâm xếp 8 tầng (kaya dalipan), 3 mâm xếp 5 tầng (kaya limư) và với 5 mâm cơm (cơm, canh, cá khô, thịt gà luộc…) Tất cả mâm lễ vật được đặt hai bàn tổ (sanai) chính bên trong nhà lễ.

Ngoài những mâm lễ như trên thì ở chính giữa nhà lễ còn có bàn tổ của Muk Pajau (bà bóng) - bàn tổ chính của nhà lễ. Ở bàn tổ này có đặt một “thôn hala”, 1 khay trầu le, khay rượu, gạo lễ (brah kran) tô nước lã và chén lửa đốt trầm. Ở bên trái bàn tổ bà bóng còn có bàn tổ thầy kéo đàn Rabap và bàn tổ của chủ nhà (Po sang). Ở hai bàn tổ này, mỗi bàn có đặt một khay trầu, khay rượu, bình trà, chén lửa đốt trầm.

Lễ Puis do thầy kéo đàn Rabap (Kadhar) và bà bóng (Muk pajau) là chủ tế lễ chính. Sau khi vật đã chuẩn bị xong thì trong buổi sáng hôm đó chủ nhà đem lễ vật trầu rượu đến làm lễ đón rước đàn Rabap và gạo lễ - vật tổ của thầy Kadhar và Muk pajau. Sau đó lễ được tiến hành, bà bóng khấn vái mời thần linh, tổ tiên trong nhà trình lễ. Sau đó là làm lễ cúng cá khô (ngak yang tachauk rik) và cúng 5 mâm cơm (ieu tamư salao lithey).

Sau lễ cúng các vị thần tổ tiên trong nhà (Po truak patra) thì thầy Kadhar và Muk pajau bắt đầu cúng mời đãi các vị thần linh sau: Thần Siva (Po Ginôr mưtri), Thần trong nhà (Yang di sang), Thần mẹ xứ sở (Po Inư Nưgar taha), Thần mẹ xứ sở Hamu Mưrâu (Po Inư Nưgar hamu Mưrâu), Thần mẹ xứ sở Hamu Ram (po Inư Nưgar Hamu Ram), Quan văn (Po Par), Vua Chăm thế kỷ XVII (Po Rame), Vua Chăm thế kỷ XIV (Po Thun Garai), Quan phó vương miền núi (Po Garai phauk), Po Klaung Kasat, Cey Thuơr (biệt hiệu thần Po Klaung Garai), Thần Yang in (Po Yang In), Thần rừng trầm, rừng quế (po Tang, Po Galau), Thần sóng biển (Po Riyak), Chàng trai trẻ (Po Dam), Tổ tiên (Po Trauk, Po Patra).

Mỗi vị thần trên khi được mời về dự thầy Kadhar kéo đàn Rabap hát bài thánh ca, ca ngợi công lao tiểu sử của các vị thần. Trong lúc thầy Kadhar hát bài thánh ca thì bà bóng (Muk pajau) rót rượu cầu khấn và dâng lễ vật. Bà con dự lễ cũng cầu khấn cho các vị thần linh vui lòng hưởng lễ vật của tộc họ dâng cúng mà phù hộ độ trì cho tộc họ. Nghi thức hành lễ cúng thần linh và nội dung hát ở lễ Puis này tương tự như nghi lễ cầu cúng ở các lễ liên quan đến đền tháp Chăm như lễ mở cửa tháp (pơh băng yang), lễ hội Katê…

Tiếp theo lễ đãi thần linh thì bà bóng (Muk pajau) còn múa dâng lễ. Múa dâng lễ chỉ được thực hiện ở phần tế lễ đãi thần Siva (Po Ginôr Mưtri), Po Inư Nưgar, Po Rame. Nghi thức múa cúng lễ 3 vị thần vừa nêu trên đều như nhau. Thầy Kadhar kéo đàn Rabap hát mời, bà bóng múa và dâng lễ vật mỗi vị thần một khay trầu và một ché rượu cần. Chỉ có múa dâng lễ ở vị thần mẹ xứ sở thì bà bóng còn có tục múa dâng gạo, lúa bằng động tác múa đi xung quanh 3 mũng gạo và múa đạp vào đống lúa đổ sẵn trên chiếu lễ ở bàn tổ. Nghi thức múa lễ này người Chăm còn gọi là “múa đạp lúa”. Lễ múa này người Chăm nhằm tưởng nhớ vị thần mẹ Po Inư Nưgar - Nữ thần hiện thân cho mẹ lúa, hồn lúa và họ cầu mong cho được mùa màng, đời sống ấm no, sung túc.

Những điệu múa hát theo lễ như trên được hòa vào tiếng đàn Rabap, trống Basanưng, Chiêng, nhạc gõ bằng gỗ (người Chăm gọi là tăm gek). Tất cả những lời ca điệu múa ấy mang một âm hưởng trầm hùng cùng với tiếng vỗ tay nhiệt thành của những người tham gia lễ tạo nên một nhạc lễ riêng biệt đặc sắc của lễ Puis, Payak mà người Chăm gọi nhạc lễ này là điệu nhạc “Chiêng jăp”

Sau lễ múa hát kết thúc thì họ tổ chức lễ tiễn đưa các vị thần hưởng lễ về thiên giới. Lễ này ông thầy kéo đàn Rabap và bà bóng cúng tâu trình với các thần linh là lễ tế đãi thần của tộc họ đến đây kết thúc. Bà bóng ngồi rót rượu, tay cầm những hạt lúa nổ (kaman) rãi khắp bàn tổ trong nhà lễ rồi rót rượu xuống đất miệng cầu khấn: Nghi lễ cúng thần đã kết thúc, cầu mong các vị thần trong đền tháp (yang bimôn kalan), các vị thần trong nhà (yang di sang) và tổ tiên… phù hộ độ trì cho tộc họ sức khỏe, được mùa, đoàn kết sum họp, thương yêu lẫn nhau… Sau lời khấn thì nghi lễ chấm dứt. Nhà lễ lập tức được dỡ bỏ, nghi lễ tế thần linh - Puis kết thúc trong ngày.


Lễ Payak:


Cả sư dâng lễ vật cúng thần Pôklong Garai-là lễ của tộc họ chủ yếu là cúng vị thần tổ tiên (yang di sang) và thần Po Klaung Garai. Lễ payak do các tộc thuộc các làng Chăm thờ tháp Po Klaung Garai thực hiện như: làng Phước Đồng, Chất Thường, Hiếu Lễ, Hoài Trung (Ninh Phước - Ninh Thuận)…

Hành lễ Payak cũng tương tự như lễ Puis là do thầy Kadhar và bà bóng thực hiện.

Lễ này chỉ khác ở chỗ là khi thầy Kadhar kéo đàn Rabap hát mời vị thần Siva thì bà bóng thực hiện nghi lễ “thả ba hạt gạo trôi trong lọ nước”, rồi bà bóng đợi cho đến khi 3 hạt gạo trôi đến gần nhau thì dùng lá trầu vớt 3 hạt gạo lên. Đó là điềm báo tộc họ này sum họp, làm ăn thịnh vượng, may mắn. Sau đó họ làm lễ thết đãi cơm, rượu cần như lễ Puis vừa nêu trên.

Trong lễ tế các vị thần linh trong lễ Payak, khi cúng đến thần Po Klaung Garai - đối tượng cúng chính của lễ này thì thầy Kadhar có một nghi lễ riêng. Khi cúng thần Po Klaung Garai thì thầy Kadhar kéo vạt áo lên trùm đầu và hát những bài thánh ca, bà bóng dâng lễ vật cơm canh, ché rượu cần cho thần, rồi bà bóng múa lễ mừng.

Múa trong lễ Payak phong phú hơn lễ Puis. Ngoài lễ múa mừng (tamia ôn), dâng đạp lúa (tammia jaup paday) còn có múa ngậm lửa (tamia jauk apaui), múa thoát y (tamia halang halaup), múa mừng hạt lúa (tamia ôn kaman), múa cho con ăn (tamia crauk lithey ka anưk), múa ru con (tamia dai anưk)…

- Nghi thức múa mừng và múa đạp lúa tương tự như lễ Puis.

- Múa ngậm lửa: là một điệu múa của bà bóng, tay cầm 3 cây nến thắp sáng rồi ngậm lửa vào miệng. Khi bà bóng ngậm lửa vào miệng mà nhún nhảy thì thầy Kadhar kéo đàn Rabap và nghệ nhân khác vỗ trống Basanưng, đánh chiêng dồn dập… Khi bà bóng múa và ngậm tắt 3 nén lửa thắp sáng thì múa lễ này kết thúc.

- Múa thoát y: Để thực hiện điệu múa lễ này ngoài bộ y phục màu trắng mà bà bóng mặc đang hành lễ, thì bà bóng còn mặc chồng lên thêm một cái váy màu đen. Khi tiếng nhạc lễ cất lên thì điệu múa bắt đầu. Bà bóng tay cầm hai đầu váy đen vừa mặc, vừa làm động tác mở váy ra. Bà bóng cứ làm động tác cầm hai đầu váy múa nửa kín nửa hở; nhảy múa trước bàn tổ để dâng cúng thần linh. Nghi thức múa mặc váy nửa kín, nửa hở như trên người Chăm gọi là múa thoát y (tamin lang halaup).

- Nghi lễ múa mừng hạt lúa nổ: Bắt đầu điệu múa “Mừng hạt lúa nổ”. Bà bóng nằm dài trên chiếc chiếu cổ (ciew ang) đặt ở chính giữa nhà lễ, đầu hướng về hướng đông. Bên cạnh bà bóng nằm có đặt một chén nước lễ, trong đó có 3 hạt lúa nổ và một chén rượu cần. Khi vào lễ múa thì bà bóng ngậm nước phun vào bàn tổ 3 lần rồi múa mừng theo tiếng đàn Rabap, tiếng trống Basanưng và tiếng Chiêng lễ.

- Nghi lễ múa cho con ăn: Lễ múa này do bà bóng và vũ sư của tộc họ thực hiện. Chuẩn bị lễ vật múa cho con ăn bao gồm: mâm cơm, canh, cá, gà luộc, chuối. Sau khi lễ vật chuẩn bị xong thì bà bóng và vũ sư ngồi vào bàn tổ. Trên vai bà vũ sư có đeo một chiếc váy trắng ngang ngực - tượng trưng cho tục “điệu con”. Lúc vào lễ thì bà con dự lễ rót rượu khấn vái tổ tiên thần linh cho tộc họ con đàn cháu đống. Thầy Kadhar kéo đàn Rabap hát bài lễ “cho con ăn”. Trong lúc Kadhar hát lễ thì bà bóng làm động tác cho con ăn. Đầu tiên bà bóng múa cho con uống nước, tiếp đó là xúc miệng cho con bằng nước muối. Sau đó là cho con ăn cơm với cá, đùi gà và cuối cùng là trái chuối. Tất cả lễ vật đó bà bóng bỏ vào chiếc váy trắng mà vũ sư đang đeo trước ngực. Vì chiếc váy đeo tượng trưng cho con. Sau lễ cho ăn thì bà bóng múa mừng.

- Múa lễ ru con: Múa lễ ru con do vũ sư (Muk Rija) thực hiện. Bắt đầu vào lễ này thì nhà lễ được tháo gỡ để trống ở đầu nhà lễ. Ở phần trống này họ treo một tấm váy trắng làm võng ru con. Khi vào lễ bà bóng ngồi vào bàn tổ rót rượu khấn vái và vũ sư đứng bên cạnh chiếc võng và treo bằng váy trắng làm động tác ru con theo tiếng hát bài ru con (duah dai anưk) về nữ thần mẹ Po Inư Nưgar do thầy Kadhar kéo đàn Rabap hát… Đây là điệu múa lễ cuối cùng trong hệ thống múa đãi tế thần linh Payak của tộc họ. Cũng tương tự như lễ cúng đãi thần linh - Puis đã trình bày ở trên, lễ Payak này cũng kết thúc lễ bằng nghi thức lễ tiễn đưa các vị thần linh về lại thiên giới (palau yang).

Có thể nói, lễ Puis và Payak là ngày hội của tộc họ - Ngày lễ hội mừng được mùa, mừng con cháu đầy đàn, no ấm, biểu hiện sự giàu sang phú quý của tộc họ mà làm lễ tạ ơn và thết đãi thần linh. Loại hình lễ hội của tộc họ này còn chứa đựng nhiều dấu ấn về văn hóa, tín ngưỡng bản địa cổ sơ có trước khi người Chăm tiếp nhận, ảnh hưởng loại hình tôn giáo Bàlamôn và Hồi giáo. Chính lễ nghi này là tiền đề để hình thành nên nghi thức lễ cúng tế ở đền tháp Chăm. Tín ngưỡng ấy thể hiện ở hình thức tế lễ, nội dung tế lễ. Lễ Puis, Payak do thầy cúng lễ Kadhar và Muk Pajau thực hiện, không có tu sĩ Paseh và Acar tham gia. Văn hóa, tín ngưỡng bản địa ấy còn thể hiện dấu ấn cổ sơ như tục thờ cúng tổ tiên, tục làm nhà một mái, tục ăn lúa nổ, lúa rang, uống rượu cần… Đó là biểu hiện lối sống của cư dân tiền nông nghiệp mới thoát thai từ nghề săn bắn và hái lượm. Đặc biệt ở hệ thống lễ này, có nghệ thuật múa dân gian Chăm như múa mừng, múa đạp lúa, múa ngậm lửa, múa hát ru con… Tất cả những điệu múa này chỉ mới dừng lại ở những động tác đơn giản của múa cổ điển như động tác nhún nhảy cổ tay, bàn chân, đi, đứng, ngồi… Cùng với múa là nhạc lễ Puis, Payak cũng vậy. Nhạc ở đây chỉ là nhạc cụ đơn giản như đàn Rabap, chiêng, nhạc gõ bằng gỗ (tăm gek), có cả tiếng vỗ tay… với khúc thức đơn giản mang tính cổ điển. Tuy vậy, cả múa và nhạc ở lễ Puis, Payak chính là tiền đề, là con đường manh nha để hình thành và nâng cao loại hình múa quạt Chăm và nhạc lễ trống Ginăng, Basanưng và kèn Saranai Chăm sau này. Đây chính là loại hình nghệ thuật múa nhạc cổ điển mang tính bản địa của dân tộc Chăm rất quý giá có trước loại hình múa quạt Chăm và nhạc lễ trống Ginăng, kèn Saranai hiện nay. Chính nó là cội rễ, là nền tảng, là phần hồn góp phần quan trọng để hình thành nên kho tàng nghệ thuật múa hát đặc sắc, tô thêm những sắc màu rực rỡ cho lễ hội Chăm.


0