24/05/2018, 16:08

Nhu cầu – khả năng huy động vốn cho đầu tư phát triển kinh tế – xã hội

Xuất phát từ nhu cầu bức xúc về vốn nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển với tốc độ cao, ổn định và bền vững, trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, việc huy động vốn cần khai thác tối đa nguồn vốn trong và ngoài nước nhằm đáp ...

Xuất phát từ nhu cầu bức xúc về vốn nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển với tốc độ cao, ổn định và bền vững, trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, việc huy động vốn cần khai thác tối đa nguồn vốn trong và ngoài nước nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu đầu tư của NSNN và các thành phần kinh tế.

Mục tiêu tổng quát của chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 1990 - 2000 là ra khỏi khủng hoảng – ổn định tình hình xã hội, vượt qua tình trạng của một nước nghèo và kém phát triển. Để đạt được mục tiêu quan trọng trên, nhiệm vụ của Việt Nam là đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, đảm bảo tăng trưởng cao và ổn định ở mức 8 – 9% (trong đó công nghiệp tăng 14%/năm). Đến năm 2002 GDP bình quân đầu người tăng gấp đôi so với năm 1990 tức là khoảng 400 – 450$/người/năm. Tuy nhiên, do một số khó khăn khách quan và chủ quan nảy sinh mà chủ yếu nhất phải kể đến là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đã làm giảm nhịp độ phát triển của nước ta trong năm 1999 và 2000. Do đó, tính đến hết năm 2000, GDP bình quân đầu người của ta chỉ đạt 360$ và đến hết năm 2002 chỉ đạt 400$ tức là khoảng 1,8 lần GDP năm 1990. Theo viện nghiên cứu chiến lược phát triển thì mục tiêu của Việt Nam là đến năm 2005 phải đạt GDP bình quân đầu người là 600$, gấp 1,5 lần so với con số hiện nay. Đây là một mục tiêu rất khó khăn. Muốn đạt được điều này Việt Nam cần đạt mức tăng trưởng bình quân năm là 7,2% trong 5 năm tới (trong khi mức tăng trưởng trung bình của giai đoạn 1996 – 2000 là 6,8%). Để cho mục tiêu này thành hiện thực, Việt Nam cần phải thực hiện được một lượng vốn đầu tư là 58 tỉ $ trong 5 năm tới, tăng khoảng 45% so với giai đoạn 1996 – 2000. Trong lượng vốn này thì nguồn vốn trong nước sẽ chiếm khoảng 60%, còn lại 40% sẽ được huy động từ các nguồn vốn nước ngoài. Phấn đấu đạt mức huy động trái phiếu Chính phủ hàng năm (kể cả công trái xây dựng tổ quốc) tối thiểu 5%/GDP hàng năm (khoảng 15.000 – 20.000 tỉ đồng/năm)

Trong những năm tới (2001 – 2005), để đáp ứng được nhu cầu vốn cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vốn cho các chương trình mục tiêu thì nhiệm vụ huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ tại kho bạc vẫn là một trọng trách.

Thực hiện tốt nhiệm vụ huy động vốn nói trên cần quán triệt nguyên tắc: Vốn trong nước là quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng. Cần xử lý linh hoạt mối quan hệ giữa vốn trong nước và vốn ngoài nước nhằm đảm bảo thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội.

Vai trò quyết định của vốn trong nước thể hiện ở chỗ:

+ Tạo ra các điều kiện cần thiết để hấp thụ và khai thác có hiệu quả nguồn vốn đầu tư nước ngoài.

+ Hình thành và tạo lập sức mạnh nội sinh của nền kinh tế, hạn chế những tiêu cực phát sinh về kinh tế – xã hội do đầu tư nước ngoài gây nên.

Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là sự nghiệp của toàn dân, khai thác triệt để tiềm năng vốn trong dân mới mong tạo ra sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Phải coi trọng sức mạnh của vốn đang tiềm ẩn trong dân cư và các doanh nghiệp, coi đó là kho tài nguyên quý hiếm phải được khai thác, sử dụng có hiệu quả.

Huy động các nguồn vốn trong nước

Trong những năm tới, cần tăng nhanh tỉ lệ tiết kiệm dành cho đầu tư, coi tiết kiệm là quốc sách, có những biện pháp tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng ở tất cả các khu vực Nhà nước, doanh nghiệp, hộ gia đình để dồn vốn cho phát triển sản xuất; Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, nhất là hình thức phát hành trái phiếu Chính phủ, mở rộng và phát triển các tổ chức Tài chính trung gian như: hệ thống các Công ty Tài chính, các doanh nghiệp bảo hiểm. Song song với việc huy động vốn ngắn hạn, cần tăng tỉ trọng huy động vốn trung – dài hạn.

Mục tiêu phấn đấu là phải huy động được trên 60% tổng nhu cầu vốn đầu tư từ các nguồn trong nước. Cụ thể là:

  • Nguồn vốn đầu tư Chính phủ: hàng năm ngân sách Nhà nước dành ra khoảng 10-15% vốn cho đầu tư phát triển. Dự kiến tổng thu NSNN giai đoạn 2001-2002 là 20-22% GDP, trong đó thu thuế, phí khoảng 17-18% GDP. Tổng chi NSNN khoảng 26-28% GDP trong đó chi cho đầu tư phát triển là 10% GDP và bằng 26% tổng chi NSNN. Bội chi Ngân sách không vượt quá 5% GDP giải quyết bằng cách khai thác triệt để các nguồn thu và đẩy mạnh chính sách vay nợ của Chính phủ thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ.
  • Nguồn vốn đầu tư từ nguồn khấu hao cơ bản và lợi nhuận để lại từ các doanh nghiệp: khoảng 15 – 16 tỷ $ trong những năm qua bình quân các doanh nghiệp đã đầu tư bổ sung từ 100 – 150 triệu $, dự kiến vốn doanh nghiệp chiếm 28% trong cơ cấu vốn đầu tư trong nước, đây là nguồn vốn đầu tư quan trọng trong tương lai.
  • Nguồn vốn đầu tư từ các tổ chức Tài chính: đây là nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng, Công ty Tài chính, Ngân hàng và phi Ngân hàng. Nguồn này được tính khoảng 3- 4 tỉ $.
  • Nguồn vốn đầu tư các hộ gia đình: cả nước có trên 10 triệu hộ gia đình, trong đó có khoảng 2 triệu hộ đủ vốn kinh doanh và tích luỹ hàng năm để phát triển kinh tế gia đình. Dự kiến mỗi hộ tiết kiệm cho đầu tư phát triển trung bình từ 1.000 đến 1.500 $/năm, tổng số tích luỹ khoảng 2 – 3 tỉ $ chiếm 33% cơ cấu vốn đầu tư trong nước.

Huy động vốn đầu tư nước ngoài:

Trong các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, tập trung thu hút vốn đầu tư trực tiếp (FDI) vì nó không chỉ tạo vốn để phát triển kinh tế mà còn tạo cơ hội để trực tiếp đưa kỹ thuật, công nghệ từ bên ngoài vào, giải quyết công ăn việc làm cho lao động trong nước, tạo ra sản phẩm cho tiêu dùng và cho xuất khẩu. Cần tập trung vào việc khai thác các khoản viện trợ phát triển chính thức (ODA), nhưng cần hoàn tất sớm các công việc chuẩn bị để tiếp nhận nhanh nguồn vốn này. Việc phát hành trái phiếu quốc tế cần cân nhắc kỹ các điều kiện vay và khả năng trả nợ. Không vay thương mại để đầu tư cho cơ sở hạ tầng và những công trình không mang lại lợi nhuận.

  • Nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài:

Từ khi Quốc hội ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày 29/12/1987 đến hết ngày 31/12/1999, trên địa bàn cả nước đã có 3.398 dự án đầu tư được cấp giấy phép với tổng số đăng ký đạt 42.341 triệu $ (kể cả vốn xin tăng thêm của dự án). Trong đó số dự án còn đang hoạt động là 2.895 dự án với số vốn là 36.566 triệu $ và có 503 dự án đã chấm dứt thời kỳ hoạt động hoặc bị rút giấy phép với tổng số vốn là 5.775 triệu $. Với việc tiếp tục chính sách kinh tế mở cửa, khuyến khích, hấp dẫn, tạo cơ sở pháp lý để hướng dẫn các nhà đầu tư Quốc tế có khả năng huy động vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam, ước tính năm 2003, vốn thực hiện khoảng 19 – 21 tỉ $, tăng 12,5% - 13% so với năm 2002. Trong đó vốn nước ngoài 15 – 16 tỉ $ trong tổng số vốn thực hiện. Nguồn vốn FDI ước 6 tháng đầu năm 2002 theo số đăng ký đạt 346 triệu $, giảm 43% so với cùng kỳ, số thực hiện đạt khoảng 600 triệu $, giảm 7% so với cùng kỳ.

Nguồn vốn ODA, tài trợ đa phương của các tổ chức tài trợ Quốc tế (IMF, ADB, WB) cũng có vai trò rất quan trọng. Vốn ODA trong thời kỳ 1991 – 1995 có thể đạt 2 – 2,5 tỉ $. Trong năm 1993 – 1994 hội nghị tài trợ phát triển cho Việt Nam tại Pari, cộng đồng tài chính Quốc tế đã cam kết dành cho Việt Nam nguồn tài trợ phát triển chính thức tới 3,8 tỉ $. Ta đã vay từ IMF khoảng 230 triệu $, với WB và ADB số tiền 740 triệu $, ký hiệp định vay ODA song phương với Nhật trị giá 52,3 tỉ Yên (tháng 1/1994) với Pháp trị giá 420 triệu Fr (7/1/1994).

Mục tiêu đặt ra: trong vòng 10 năm chúng ta phải đẩy mạnh huy động từ 6 – 8 tỉ $ từ nguồn ODA và nguồn tài trợ đa phương của các tổ chức Quốc tế. Nguồn vốn ODA 6 tháng đầu năm 2000 được chính thức hoá bằng các hiệp định ký kết với các nhà tài trợ đạt 1.068,8 triệu $ (gồm 906 triệu $ vốn vay và 104,8 triệu $ vốn viện trợ không hoàn lại). Số vốn giải ngân ước đạt 785 triệu $, đạt 46,3 % kế hoạch năm (trong đó vốn vay 655 triệu $, vốn viện trợ không hoàn lại 130 triệu $)

  • Nguồn viện trợ nước ngoài: từ năm 1990 viện trợ của các tổ chức Liên hiệp quốc cho Việt Nam khoảng 50 – 60 triệu $/năm.
  • Bên cạnh các nguồn vốn nói trên, cần phát hành trái phiếu Chính phủ ra thị trường kinh tế để huy động vốn đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài. Dự kiến trong 5 năm 1998 – 2002 bình quân mỗi năm huy động 300 – 500 triệu $ thì tổng số huy động vốn có thể đạt 2 – 2,5 tỉ $.

Trong thời gian qua chúng ta đã có chính sách, cơ chế huy động vốn thích hợp, góp phần tạo điều kiện khai thác những nguồn vốn trong nước và nước ngoài một cách có hiệu quả. Nhờ đó mà chúng ta đã huy động được một lượng vốn lớn để bù đắp thiếu hụt NSNN và để đầu tư phát triển kinh tế, góp phần ổn định lưu thông tiền tệ, kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả đạt được thì trong thời gian qua, công tác huy động vốn của ta còn nhiều hạn chế. Để khắc phục những tồn tại và nâng cao hiệu quả huy động vốn, cần có những chính sách, giải pháp hữu hiệu, hợp lí hơn.

Để tăng cường công tác huy động vốn cho đầu tư phát triển, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế cần chú trọng một số giải pháp sau:

Huy động vốn từ nội bộ nền kinh tế quốc dân:

Hiện nay, tiềm năng vốn trong nước của ta còn rất lớn. Vấn đề đặt ra là cần tìm giải pháp để biến tiềm năng thành hiện thực, huy động triệt để vốn trong nước phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Huy động vốn qua kênh NSNN

sẽ là điều kiện quan trọng để giải quyết nhu cầu thu chi của Nhà nước về tiêu dùng thường xuyên, chi đầu tư phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Việc huy động qua kênh NSNN phải dựa vào thuế, phí, lệ phí; phát huy tiềm năng vốn từ các nguồn tài nguyên quốc gia phải từ vay nợ... trong đó thu thuế và phí vẫn là nguồn thu quan trọng nhất.

  • Huy động vốn qua thuế, phí, lệ phí: để tăng cường hơn nữa hiệu quả huy động vốn qua thuế, phí, lệ phí cần phải mở rộng diện thu thuế, quy định mức thuế suất ở mức vừa phải, hợp lí, nhăm thúc đẩy doanh nghiệp, dân cư mở rộng đầu tư; mở rộng diện thu thuế thu nhập cá nhân, đánh thuế thu nhập với khoản lợi tức thu từ vốn; chuyển hẳn sang cơ chế đối tượng nộp thuế tự khai và trực tiếp nộp thuế vào KBNN.
  • Mở rộng phát hành trái phiếu Chính phủ để tạo nguồn vốn cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế.

Vay nợ dân tạo nguồn vốn cho đầu tư là hiện tượng bình thường của mọi Nhà nước. Vay nợ dân tạo nguồn vốn cho đầu tư phát triển có hai điểm lợi:

+ Tăng tiết kiệm xã hội, tạo thói quen tiết kiệm, tiêu dùng hợp lí cho người dân.

+ Nhà nước có được nguồn vốn để đầu tư phát triển kinh tế mà không phải phát hành tiền, tránh được lạm phát.

Muốn tăng hiệu quả vay nợ dân, cần chú trọng vào những vấn đề sau:

+ Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn như: Tín phiếu, trái phiếu, phát hành loại trái phiếu vô danh có thể chuyển đổi tự do, trái phiếu công trình có thể chuyển đổi thành cổ phiếu, đảm bảo việc lấy lãi dễ dàng, nhanh gọn.

+ Đa dạng hoá các thời hạn vay vốn qua trái phiếu, chủ yếu tập trung huy động vốn bằng các loại trái phiếu trung và dài hạn, hạn chế và đi tới chấm dứt vay ngắn hạn với lãi suất cao để bù đắp bội chi Ngân sách.

  • Bộ Tài chính phát hành trái phiếu; Ngân hàng nhà nước đứng ra tổ chức đấu thầu mua trái phiếu (đấu thầu cả về lãi suất, khối lượng mua và thời hạn), xác định mức lãi suất vay vốn hợp lý, đảm bảo có lợi cho cả chủ sở hữu lẫn người vay vốn.

Xúc tiến nhanh việc phát triển thị trường chứng khoán.

Việc hoàn thiện thị trường vốn và đặc biệt là phát triển thị trường chứng khoán sẽ tạo điều kiện cho các giao dịch về chứng khoán và chuyển đổi từ chứng khoán sang tiền mặt được nhanh gọn và thuận tiện.

Huy động vốn qua các tổ chức Tài chính – Tín dụng.

Trong những năm trước mắt và cả về lâu dài, các tổ chức Tài chính – Tín dụng vẫn là trung gian vốn lớn nhất trong nền kinh tế, bởi vậy phải coi trọng và tăng cường hiệu quả huy động vốn qua các tổ chức này. Các giải pháp đó là:

  • Mở rộng hình thức tiết kiệm qua bưu điện, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân có thể gửi tiền tiết kiệm bất kỳ lúc nào, ở đâu với số tiền nhiều hay ít.
  • Mở rộng các hình thức huy động vốn tiết kiệm như: tiết kiệm xây dựng nhà ở, tiết kiệm tuổi già, tín dụng tiêu dùng.
  • Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thiết lập các quỹ đầu tư, các Công ty bảo hiểm, Công ty Tài chính,... để thu hút có hiệu quả các nguồn vốn, phát triển mạnh mẽ hơn nữa hệ thống các Ngân hàng, các tổ chức Tài chính, các quỹ tín dụng nhân dân.
  • Cho phép phát hành kỳ phiếu thu ngoại tệ; phát hành kỳ phiếu, trái phiếu để huy động vốn ngắn hạn và trung hạn.
  • Có chính sách lãi suất hợp lý, khuyến khích và có biện pháp bắt buộc các tổ chức tín dụng phải có cơ cấu dư nợ hợp lý giữa dư nợ cho vay ngắn hạn và dư nợ cho vay dài hạn, trung hạn, nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp huy động vốn cho đầu tư chiều sâu, mở rộng quá trình kinh doanh.

Thúc đẩy các doanh nghiệp tự đầu tư,

khai thác triệt để các nguồn vốn trong các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế – chính trị – xã hội tự bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất

  • Kích thích, khuyến khích các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế – chính trị – xã hội tự bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất.

+ Khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao khả năng tích tụ và tập trung vốn, mở rộng vốn từ kết quả sản xuất kinh doanh của mình.

+ Khai thác và sử dụng có hiệu quả mọi tiềm năng vốn hiện có trong doanh nghiệp, cho phép các doanh nghiệp sử dụng linh hoạt các nguồn vốn, các loại quỹ, phục vụ kịp thời yêu cầu sản xuất kinh doanh. Nhà nước cần xây dựng cơ chế bảo toàn vốn.

  • Khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tự huy động vốn từ dân cư, các tổ chức tín dụng, các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh.

+ Mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết, hợp đồng, hợp tác kinh doanh với các đối tác trong nước và nước ngoài.

+ Từng bước mở rộng cổ phần hoá, đa dạng hoá các hình thức sở hữu đối với các doanh nghiệp Nhà nước. Cho phép các doanh nghiệp được phát hành cổ phiếu, trái phiếu theo quy định của chính phủ để tìm kiếm và huy động vốn của cá nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Khai thác triệt để tiềm năng vốn trong dân cư

kích thích người dân tự bỏ vốn đầu tư cho Nhà nước, các tổ chức kinh tế vay để tạo nguồn vốn đầu tư. Thực hành tiết kiệm trong toàn xã hội, khuyến khích và có chính sách hướng dẫn tiêu dùng hợp lý. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho người dân bỏ vốn đầu tư.

Huy động vốn ngoài nước

Việc huy động vốn nước ngoài trong những năm trước mắt vẫn được coi là biện pháp quan trọng và liên quan đến chính sách đối ngoại, quan hệ kinh tế, chính trị giữa Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế để thu hút được khoảng 20 – 25 tỉ từ nước ngoài cho đến năm 2003. Chúng ta có thể áp dụng các hình thức sau:

Thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn đầu tư trực tiếp của các nhà đầu tư nước ngoài.

Về nguyên tắc, để thu hút được đồng vốn đầu tư này, trước hết phải chứng minh được nền kinh tế nội địa là nơi an toàn cho sự vận động của đồng vốn và sau nữa là nơi có năng lực sinh lợi cao hơn những nơi khác, đó là điều kiện cần và đủ để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Do vậy cần phải thực hiện các giải pháp sau:

  • Tạo lập môi trường kinh tế – xã hội ổn định và thuận lợi cho sự thâm nhập và vận động của dòng vốn đầu tư nước ngoài. Để đảm bảo tạo lập và duy trì môi trường kinh tế ổn định, đòi hỏi phải giải quyết nhiều vấn đề cả về thể chế chính trị, môi trường pháp luật cũng như cách vận hành quản lý nền kinh tế, vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cần phải:

+ Kiềm chế có hiệu quả nạn lạm phát, giữ tỉ lệ lạm phát ở mức hợp lý, vừa đảm bảo sự ổn định kinh tế vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

+ Nhà nước đảm bảo tạo lập một môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế.

+ Đẩy mạnh hơn nữa và thực hiện triệt để công cuộc cải cách về thủ tục hành chính, cải thiện môi trường pháp lý cho sự vận động của các dòng vốn nước ngoài.

  • Duy trì và tăng cường khả năng sinh lợi lâu bền của nền kinh tế quốc dân.
  • Xem xét các hình thức ưu đãi đầu tư, có quy hoạch cụ thể, chi tiết các ngành, các lĩnh vực, các dự án ưu tiên đầu tư.

Khai thông, mở rộng và hấp thu triệt để các nguồn vốn đầu tư gián tiếp từ nước ngoài

  • Tìm kiếm, khai thác triệt để các nguồn viện trợ không hoàn lại, viện trợ nhân đạo, viện trợ phát triển chính thức và vay nợ.

+ Tranh thủ vốn vay ưu đãi theo thể thức ODA vì thời hạn vay tương đối dài, lãi suất thấp, chủ động lập, thẩm định chặt chẽ các dự án cần gọi vốn ODA, giải quyết tốt công tác giải ngân nguồn vốn vay đã ký.

+ Khai thác nguồn vay, tài trợ đa phương từ các tổ chức quốc tế (IMF, WB, ADB), cố gắng thống nhất với các nước, tổ chức quốc tế trong thời gian sớm nhất các văn bản khung về vay vốn trong giai đoạn 2001 – 2010 để có dự kiến bố trí sử dụng vốn và rút vốn.

+ Bên cạnh việc xúc tiến sử dụng vay nợ, cần đẩy mạnh việc quản lý nợ quá hạn qua đàm phán giãn nợ, thí điểm và mở rộng diện chuyển đổi, mua bán nợ.

  • Phát hành trái phiếu quốc tế ra nước ngoài để thu hút vốn, phải được tính toán kỹ lưỡng, vì lãi suất cao và vì những khoản này đòi hỏi đầu tư phải thu lợi nhuận ngay, hoặc thu lãi cao mới có khả năng trả được nợ.

Trong điều kiện nước ta hiện nay, cần phải coi trọng cả hai nguồn vốn trong nước và nước ngoài. Trong đó nguồn vốn trong nước giữ vai trò quan trọng. Việc huy động vốn trong và ngoài nước phải được nhìn nhận theo một quy trình khép kín trên cả ba phương diện: huy động, sử dụng và quản lý. Đồng thời bảo đảm thông suốt trên cả ba giai đoạn: tích luỹ – huy động - đầu tư, nhằm đạt tốc độ luân chuyển và hiệu quả cao nhất. Có như vậy nước ta mới tránh được tình trạng khủng hoảng nợ và đảm bảo cho nền kinh tế – xã hội phát triển lành mạnh và bền vững.

0