Lịch sử ngày "Cá tháng Tư"
Từ thời cổ La Mã, 753 trước Công nguyên, người ta soạn lịch một năm chỉ có 10 tháng tức là 304 ngày. 1 Martius 31 ngày 7 Sextilis 29 ngày 2 Aprilis 30 ngày 8 September 29 ngày 3 ...
Từ thời cổ La Mã, 753 trước Công nguyên, người ta soạn lịch một năm chỉ có 10 tháng tức là 304 ngày.
1 | Martius | 31 ngày | 7 | Sextilis | 29 ngày |
2 | Aprilis | 30 ngày | 8 | September | 29 ngày |
3 | Maïus | 31 ngày | 9 | October | 31 ngày |
4 | Junius | 30 ngày | 10 | November | 29 ngày |
5 | Quintilis | 31 ngày | 11 | December | 29 ngày |
Sau đó thấy sai với năm mặt trời nên họ thêm hai tháng
1 | Januarius | 31 ngày | 7 | Sextilis | 29 ngày |
2 | Martius | 31 ngày | 8 | September | 29 ngày |
3 | Aprilis | 29 ngày | 9 | October | 31 ngày |
4 | Maïus | 31 ngày | 10 | November | 29 ngày |
5 | Junius | 29 ngày | 11 | December | 29 ngày |
6 | Quintilis | 31 ngày | 12 | Februarius | 27 ngày |
Julius Caesar sửa lại
1 | Januarius | 31 ngày | 7 | Julius | 31 ngày |
2 | Februarius | 29-30 ngày | 8 | Sextilis | 30 ngày |
3 | Martius | 31 ngày | 9 | September | 31 ngày |
4 | Aprilis | 30 ngày | 10 | October | 30 ngày |
5 | Maïus | 31 ngày | 11 | November | 31 ngày |
6 | Junius | 30 ngày | 12 | December | 30 ngày |
Augustus sửa lại
1 | Januarius | 31 ngày | 7 | Julius | 31 ngày |
2 | Februarius | 28-29 ngày | 8 | Augustus | 31 ngày |
3 | Martius | 31 ngày | 9 | September | 30 ngày |
4 | Aprilis | 30 ngày | 10 | October | 31 ngày |
5 | Maïus | 31 ngày | 11 | November | 30 ngày |
6 | Junius | 30 ngày | 12 | December | 31 ngày |
Augustus sửa lại nên tên ông được thay thế tháng Sextilis, và số ngày được nâng lên cho bằng Julius
3 năm thì có 1 năm nhuận, ngày nhuận thêm vô tháng Februarius
Gregory sửa lại:
Mỗi chu kỳ 4 năm có 1 năm nhuận
Pháp dùng lịch grégorien.
Julius Caesar |
Augustus Caesar |
Giáo hoàng Gregory XIII |
Bên Pháp ngày 1 tháng tư thời tiết bắt đầu ấm, hơi gió và mưa lất phất, mọi người được quyền quên chiếc áo ấm dày, thô nặng nề. Hoa thủy tiên đã nứt lên từ tháng một, trải qua nhiều lần tuyết phủ, hoa đầu tiên vui mừng báo hiệu mùa xuân. Mọi cây khác nhìn xa thấy vẫn chỉ là những cành không lá đen đủi, nhưng thiệt ra chúng đã ôm đầy nụ từ hai tháng trước như đã ngầm chuẩn bị với nhau, lần lượt nở vào tháng Tư. Tháng Tư đúng là mùa Xuân, hoa lá sống trở lại sau khi ngủ một giấc dài 6 tháng, giống như tháng Giêng của Việt Nam
Quyết định này được áp dụng từ năm 1567.
Poisson d'Avril::
Sự thay đổi lịch này này làm xê dịch ngày trao đổi quà tết. Có những người vẫn chưa quen hay vẫn còn nghi ngờ ngày 1 tháng 1, nên vẫn tiếp tục trao tặng quà nhau vào ngày 1 tháng 4. Sau đó tuy họ đã quen dần với loại lịch mới, nhưng họ vẫn tiếp tục tặng nhau những món quà nhỏ cốt để vui cười với nhau, rồi dần dần tới chuyện dùng mưu mẹo để giăng bẫy nhau...
Tại sao lựa con cá ??
Nếu những trò đùa được biết dưới tên "cá tháng 4", là vì ở thế kỷ 16, quà tặng nhau thường là thức ăn. Ngày này là ngày cuối mùa chay, thời kỳ này người đạo Thiên chúa bị cấm ăn thịt. Cá là món ăn chay thường xuyên. Một trong những nghịch ngợm là họ tặng nhau con cá giả.
Các nước khác...
Truyền thống đùa giỡn ngày 1 tháng 4 bắt đầu ở phương Tây và từ từ lan dần. Mỗi nước biểu thị một cách khác. Người Anh đặt tên là April's fool day, chỉ chọc phá buổi sáng thôi và người bị bẫy là "cộng mì ống". Xứ Tô Cách Lan thì gấp hai lần Pháp vì họ giỡn cho tới ngày 2/4. Ngoài ra còn có một loại cá tháng tư bên Ấn độ, xảy ra vào ngày 31/3 và họ gọi là lễ Huli.
Những ích lợi của sự cười:
Galien, y sĩ La Mã nói: "đàn bà vui vẻ lành bệnh mau hơn đàn bà buồn". Một lời xác định chứng minh cười là một phương thuốc thật sự.
Năm 1979 nhà báo Norman Cousins cho ra đời quyển La volonté de guérir
Tại sao cười lại trị được bệnh??
1) Cười là môn thể thao nội tạng:
Tim đập nhanh như khi ta chạy 100 mét, phổi thải ra một khối lớn không khí. Máu di chuyển nhanh làm thải đi nhanh các chất độc từ lâu tích trữ. Sự tiêu hóa hoạt động nhờ co thắt vùng bụng. Căng thẳng thần kinh giảm. Cơ thể được thư giãn là nhờ các endorphine, một loại morphine thiên nhiên được tiết ra bởi não khi chúng ta cười thỏa thích. Sau đó nhịp tim chậm lại, mạch máu dãn nở và huyết áp giảm. Nói tóm lại cười làm giảm huyết áp cao, lảm tiêu hóa tốt và cho ta giấc ngủ ngon.
2) Giải thích khoa học
Cười có hiệu quả tốt cho hệ thống miễn dịch. Người ta đã biết từ lâu lợi ích của cười trong quá trình chữa lành bệnh. Ngày nay có mấy chục nghiên cứu về những trạng thái của nụ cười và tâm trạng vui tươi và gần đây nhất người ta vừa mới khám phá tác dụng của cười trên nhiều loại tế bào của hệ thống miễn dịch.
Mục tiêu của nghiên cứu này là đo hiệu quả của một cái cười thỏa thích trên nhiều tham số neuroimmunologiques khác nhau như trị số và sinh hoạt của các thực bào thiên nhiên, các bạch huyết cầu (leucocyte), tế bào T. B. l'interféron gamma, bạch huyết bào (lymphocytes). bạch cầu hạt (granulocytes) và các bạch cầu đơn (monocytes), nghĩa là tất cả các tế bào dùng đễ chiến đấu với các bệnh tật.
3) Thí nghiệm:
Người ta cho 52 người gồm các sinh viên y khoa và nhũng người tình nguyện xem video phim hài hước trong một giờ. Họ được rút máu để phân tích trước khi xem phim 10 phút, sau khi xem một ít, sau khi xem phim 30 phút và sau 12 giờ.
Kết quả có vẻ khả quan: các thực bào dồn tới nhiều hơn, sự gia tăng đáng kể các immunoglobulines G, A và M, các tế bào T và hầu hết các tham số đem phân tích khác.
Kết luận: Cười là một phương pháp để kích thích hệ thống miễn dịch hoạt động tăng.
Võ Thị Diệu Hằng