25/05/2018, 10:55

Lê Bá Dương

Giới thiệu Sinh 10 tháng 4, 1953 (57 tuổi) Nghệ An, Việt Nam Quốc tịch Việt Nam Lĩnh vực Nhiếp ảnh, Báo chí (sinh ngày 10 tháng 4 năm 1953), còn có các bút danh Tư Lê, Lý Quảng Trịnh, Triệu Gio Cam, là chiến sĩ quân giải ...

Giới thiệu

Sinh 10 tháng 4, 1953 (57 tuổi)

Nghệ An, Việt Nam

Quốc tịch Việt Nam

Lĩnh vực Nhiếp ảnh, Báo chí

(sinh ngày 10 tháng 4 năm 1953), còn có các bút danh Tư Lê, Lý Quảng Trịnh, Triệu Gio Cam, là chiến sĩ quân giải phóng tại thành cổ Quảng Trị và hiện là nhà báo, nghệ sĩ nhiếp ảnh thuộc Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam, phóng viên thường trú của báo Văn hóa tại Nha Trang.

Là tác giả bài thơ 4 câu nổi tiếng mang tên Lời gọi bên sông (còn được biết đến với tên gọi Đò xuôi Thạch Hãn), cũng là người đã khởi xướng nên phong trào kết bè thả hoa thường niên trên dòng sông Thạch Hãn vào ngày 27 tháng 7 để tưởng niệm vong linh đồng đội, những người đã ngã xuống mảnh đất Quảng Trị trong cuộc chiến khốc liệt của Mùa hè đỏ lửa

sinh ngày 10 tháng 4 năm 1953 tại Nghệ An và trải qua tuổi thơ tại đây. Tháng 4 năm 1968, khi mới 15 tuổi anh khai tăng tuổi để được nhập ngũ[1]. Sau 2 tuần huấn luyện và 1 tháng hành quân, vào chiến đấu ở Quảng Trị. Trong trận chiến đầu tiên của anh tại thôn Đông Trì thuộc mặt trận Đông Hà, mới 15 tuổi 49 ngày đã trở thành dũng sĩ cấp II nhờ diệt hơn chục lính Mỹ. Trong trận đánh đồi Thám Báo (cao điểm 544), anh cùng 3 đồng đội chiến đấu gần một ngày, đẩy lùi rất nhiều đợt tấn công của 2 đại đội địch. Cuối cùng, khi địch tràn ngập trận địa, Dương giật 3 quả pháo hiệu làm hiệu cho pháo của Quân giải phóng phá hủy trận địa, chấp nhận cùng hy sinh nhưng may mắn anh chỉ bị ngất đi. Trước lúc đó, anh đã dùng máu từ vết thương mình viết vào tấm ảnh Hồ Chí Minh mà anh luôn mang trong người những dòng chữ: "Bác Hồ ơi, bắt đầu từ hôm nay 20-6, con cùng đồng đội bắt đầu nổ súng diệt địch, dự (giữ) chốt đến cùng. Quán diệt được bảy tên, Hòe, Dương mỗi người hơn một chục. Ghi sâu lời Bác dạy, hễ còn tên xâm lược trên đất nước ta thì ta còn chiến đấu quét sạch nó đi. Bác ơi, quyết tâm của chúng con, trách nhiệm của chúng con là dự chốt…”.

Một trận đánh khác tại Tây Bắc huyện lỵ Cam Lộ đã trở thành cội nguồn của việc sau này anh về thắp hương trên núi, trên đồi, thả hoa xuống suối sông. Đêm đó, sau trận đánh cao điểm 322 (giữa tháng 11 năm 1969), đại đội của anh lúc ấy gồm 67 người vừa mới dừng chân để nấu ăn thì một loạt bom B52 dội xuống đội hình. Trận bom quét qua chỉ mấy giây đồng hồ nhưng đại đội chỉ còn đúng 6 người.

Từ 1968 đến 1973, qua nhiều trận đánh vào sinh ra tử trên khắp chiến trường Quảng Trị, đã được phong tặng danh hiệu "dũng sĩ diệt cơ giới", "dũng sĩ diệt máy bay". Trên mặt trận B5 (đường 9, Quảng Trị) đương thời từng dấy lên phong trào “Xung kích như , chốt chặt như ”. Các tờ báo Nhân dân, báo Quân đội Nhân dân, báo Tiền phong đã có nhiều bài viết và in ảnh mặt trẻ măng, kẹp AK giữa chiến trường, với ánh mắt trong veo và đôi môi mím chặt.

Hiện nay, mang trên mình 14 vết thương và 1 ngón tay để lại chiến trường, vẫn tiếp tục chụp ảnh và cầm bút với tư cách phóng viên thường trú báo Văn Hóa tại chi nhánh khu vực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên (Nha Trang), hội viên Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam và hội viên Liên đoàn Nhiếp ảnh quốc tế (FIAP).

Năm 1976, từ Nha Trang trở lại thăm chiến trường Quảng Trị, đã lặng lẽ hái hoa dại, mua hoa ở chợ thả ở Bến Tắt, phía Tây Bắc của nghĩa trang Trường Sơn để tưởng nhớ những người đồng đội đã ngã xuống và nằm lại vĩnh viễn tại nơi này. Cứ thế sau đó ông thả hoa ở cầu Đuồi, cầu Lai Phước trên sông Hiếu, sông Ô Lâu và trên sông Thạch Hãn.

Ông tâm sự:“ Qua nhiều trận đánh, tự tay tôi đã vuốt mắt, chôn hàng trăm đồng đội. Không chỉ là những mất mát đến xót xa một lúc cả trăm, cả ngàn người lính, mà còn là nỗi đớn đau khi nhiều người lính không còn đủ hình hài để có thể cắm một cái bia tên tuổi anh em. Có những người, sau khi chôn xong thì bị lũ cuốn trôi, hay bom lại xới lên, phải chôn lại... Riêng trong chiến dịch giải phóng và sau này bảo vệ thành cổ Quảng Trị, hàng trăm anh em chúng tôi đã nằm - chính xác hơn là tan hòa vĩnh viễn vào lòng sông Thạch Hãn và cả các dòng sông khác.

Vì vậy mỗi lần về lại Quảng Trị, tôi đều lên đồi cao đốt hương cho khói tỏa đến vong linh anh em đồng đội, rồi xuống sông thả hương hoa gửi vào lòng suối, cuối sông... ”

—, ”

Năm 1987, lần đầu tiên sau hòa bình về lại huyện Triệu Hải (giờ tách thành huyện Triệu Phong, Hải Lăng và thị xã Quảng Trị) và rạng sáng ngày 27 tháng 7, ông ra chợ mua hết hoa rồi thuê người chở xuống bến sông. Tại đây, ông thuê một con đò của một bà mẹ ngư dân với giá 8.000 đồng/giờ để đi thả hoa trên sông. Thả hoa xong, vừa đúng 4 giờ thuê đò, ông lấy tiền trả cho bà mẹ thì bất ngờ mẹ quỳ sụp xuống lạy và khóc: “Mi làm rứa, răng mệ lấy tiền mi...”. Rồi hai mẹ con cùng khóc trước sự sững sờ của những người bạn của ông vừa ào ra bến thuyền. Thì ra hôm đó tại hội trường, trong lễ kỷ niệm Ngày thương binh liệt sĩ mọi người bàn nhau đi mua hoa để viếng nghĩa trang. Khi ra chợ thì hoa không còn, hỏi thì mấy chị bán hoa nói có anh bộ đội nào đó đã mua hoa rồi vừa đi vừa khóc ra phía bờ sông, mấy người bạn đoán ngay là liền vội lao ra sông.

Sau chuyện này những người bạn ở Triệu Hải cứ đến dịp 27 tháng 7 năm nào cũng mua hương hoa ra thả. Lâu dần thành tập quán chung của người dân ở hai bên bờ Thạch Hãn và bây giờ là tập quán của mỗi người dân Quảng Trị. Những cán bộ văn hóa và văn nghệ sĩ tại Quảng Trị sau đó đã nâng nghĩa cử này trở thành một lễ hội.

Nằm trong tổng thể dự án xây dựng một khu tưởng niệm ở Quảng Trị để hương khói cho vong linh đồng bào, chiến sĩ, năm 2007 Ngân hàng Phát triển Việt Nam đã xin phép tỉnh để được đầu tư xây dựng trước một hạng mục quan trọng là bến thả hoa nối dài ra phía lòng sông tại bờ kè phía Nam sông Thạch Hãn, đồng thời thể theo ước nguyện của các cụ lão thành xin trồng 81 cây phượng bên bờ kè Nam sông Thạch Hãn.

Văn chương

Ngoài những tác phẩm nhiếp ảnh, một bài thơ mang tên Lời gọi bên sông của , được sáng tác chiều ngày 27 tháng 7 năm 1987, đã trở nên nổi tiếng với nhiều dị bản khác nhau lưu truyền trong nhân dân[6][7], mà dưới đây là một trong số đó:

Đò lên Thạch Hãn ơi... chèo nhẹ

Đáy sông còn đó bạn tôi nằm

Có tuổi hai mươi thành sóng nước

Vỗ yên bờ, mãi mãi ngàn năm

Ngoài bài thơ nói trên, một bài thơ hai câu của đã xuất lộ trong một tình huống khác khi ông trả lời câu hỏi của một cô bé trong nhà dân "chú ơi, tại sao lại gọi là quân giải phóng Bắc Quảng trị". Hai câu thơ viết vội trong trang sách học trò của cô bé và cũng là hai vế đối:

Một khẩu súng giữ hai trời Nam Bắc

Một dấu chân in màu đất hai miền.

Nhân dịp kỷ niệm 35 năm giải phóng Quảng Trị hai câu thơ đó đã trở lại với trong hình hài tờ giấy học trò ố vàng nhưng vẫn còn nguyên nét chữ. Nghệ sĩ nhiếp ảnh Đoàn Công Tính đã đề nghị một nhà thư pháp viết hai câu thơ mà theo ông, đó là tuyên ngôn hay nhất bằng thơ về quân giải phóng Bắc Quảng Trị của .

Tháng 8 năm 2009 nhân kỷ niệm 55 năm ngày thành lập Đặc khu Vĩnh Linh (25 tháng 8 năm 1954–25 tháng 8 năm 2009), cho ra mắt cuốn sách Thép từ ngàn độ lửa, tập hợp những bài viết theo lối thuật chuyện của nhiều tác giả không chuyên với tư cách là những người trong cuộc. Trong 348 trang với 57 tác phẩm của 41 tác giả, cuốn sách nói về cuộc “vạn lý trường chinh” của người dân giới tuyến Vĩnh Linh 40 năm về trước, và lòng tri ân của người dân Vĩnh Linh đối với đồng bào và chiến sĩ miền Bắc.

Nhiếp ảnh

Năm 2005, sau chuyến đi Trường Sa ròng rã một tháng trời, đã tổ chức thành công cuộc triển lãm ảnh mang tên "Khoảnh khắc Trường Sa" trưng bày 40 trong tổng số gần 500 bức ảnh chụp về Trường Sa của ông.

Đài Truyền hình Quảng Trị, Đài Truyền hình Việt Nam đã có các bộ phim tài liệu và chương trình giao lưu trên sóng làm về và đồng đội mang tên Người thả hoa cho dòng sông và Một thời hoa lửa. Từ một trong những chương trình như vậy, Đài truyền hình Việt Nam đã phối hợp với Nhà xuất bản Trẻ cho ra mắt cuốn sách mang tên Một thời hoa lửa viết về những người lính trong trận đánh kéo dài 81 ngày đêm (28 tháng 6 đến 16 tháng 9 năm 1972) tại Thành cổ Quảng Trị.

0