Làng Bồng Trung
Bồng Trung là một ngôi làng thuộc xã Vĩnh Tân, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, nằm ở vùng trung lưu, phía tả ngạn bên dòng sông Mã. Bồng Trung là trung tâm buôn bán cho một vùng quê rộng lớn trong tỉnh. Đông Biện, một làng quê luôn sánh vai với nhiều ...
Bồng Trung là một ngôi làng thuộc xã Vĩnh Tân, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, nằm ở vùng trung lưu, phía tả ngạn bên dòng sông Mã. Bồng Trung là trung tâm buôn bán cho một vùng quê rộng lớn trong tỉnh.
Đông Biện, một làng quê luôn sánh vai với nhiều vùng địa linh nhân kiệt trong cả nước1[cần dẫn nguồn]. Từ đời này sang đời khác, Đông Biện được lưu truyền và sống mãi cùng thời gian với các câu truyền miệng trong dân gian: "Nghệ Đông Thành - Thanh Đông Biện hay Đông Cổ Am (Hải Phòng)- Nam Hành Thiện (Nam Định)hoặc Nghệ Quỳnh Đôi - Thanh Đông Biện".
Trải qua bao thăng trầm trong lịch sử, từ cái tên ban đầu thuở khai sinh lập địa là làng Biện Đà rồi đổi thành Đông Biện. Đến năm Ất dậu Hàm Nghi 1 (1885), Đông Biện mới đổi tên là làng Bồng Trung và tên này được lưu giữ tới ngày nay.
Người Bồng Trung hiếu học, nên từ xưa đến nay đã có nhiều vị đỗ đạt cao tới tiến sỹ như tiến sỹ Tống Duy Tân. Năm Tự Đức Nguyên Niên (1848) làng Bồng Trung đã mở trường tư thục có tên là "Vinh Đông Học Xá", dạy từ mẫu giáo đến chương trình thi Hương. Do vậy thường tổ chức các buổi tọa đàm, bình văn thơ vào các ngày rằm và mồng một hàng tháng[cần dẫn nguồn].
Hiện nay tấm bia đề tên trường "Vinh Đông Học Xá" vẫn còn lưu giữ tại đình làng. Ngoài ra Bồng Trung còn mở cả trường dạy võ mà tiêu biểu là cụ đề đốc Lê Điếm một võ sinh xuất sắc thời bấy giờ. Trong các triều đại Bồng Trung luôn có người tham gia tại triều chính[cần dẫn nguồn]. Đặc biệt hơn Bồng Trung là làng quê có rất nhiều người làm nghề dạy học, nên cũng là nơi đóng góp một lực lượng không nhỏ cho nền giáo nước nhà ở mọi miền đất nước[cần dẫn nguồn].
Năm 1470 hai vị trai làng người họ Đỗ đã một lòng theo vua Lê Thánh Tông đi dẹp giặc Chiêm Thành và lập công xuất sắc nên nhà vua đã phong tới chức đô đốc phủ tả đô đốc, sau nhà vua còn sắc phong là Quốc công đó là cụ Đỗ Nhuận[cần dẫn nguồn]. Quốc công Đỗ Nhuận (quan nhà Hậu Lê) sinh được năm người con trai cũng đều đỗ tiến sỹ vào đời vua Lê Thánh Tông và vua Lê Hiến Tông.
Vào năm Quang Thuận 6 (1465), con gái họ Đỗ là bà Đỗ Thị Hạnh đã kết duyên cùng Quốc công Nguyễn Như Trác tức là ông nội của Nguyễn Kim sau này. Đến năm Hồng Đức III (1472)lại thêm bà Đỗ Thị Đức lấy Trừng Quốc Công là bố đẻ của Nguyễn Kim. Năm Hồng Đức XIII (1482) lại có bà Đỗ Thị Kính lấy Hộ bộ Thượng thư Quỳnh Sơn Hầu Nguyễn Lữ. Năm Quang Thiện IV (1519) bà Đỗ Thị Tín lấy ông Chiêu công Huân Nguyễn Kim và chính bà Tín thân mẫu của bà Nguyễn Bảo Ngọc, sau này là vợ của chúa [[Trịnh Kiểm] người cùng làng Đông Biện. Người em ruột của Nguyễn Kim là Uy sơn Hầu Nguyễn Tông Thái cũng kết duyên với người họ Đỗ đó là bà Đỗ Thị Chỉ vào năm Chính Tự VIII (1568). Về sau người con trai của Nguyễn Hoàng là Nguyễn Hán cũng lấy vợ họ Đỗ Đông Biện...
Sau này, ông Đỗ Thời Viêm người họ Đỗ Đông Biện làm quan đốc học tại tỉnh Ninh Bình. Hay ông Nguyễn Huy Tế người họ Nguyễn Đông Biện làm tới chức tả thị lang bộ hộ, là người trung trực, ngay thẳng nên trong triều đã được vua Tự Đức sủng ái.
Năm Thiệu II (1842), người họ Hoàng làng Đông Biện đỗ cử nhân là ông Hoàng Tuấn Thăng, tên thật là Hoàng Tạo, nhưng được nhà vua thời Tự Đức sủng ái nên đặt tên cho ông là Hoàng Tuấn Thăng. Ở triều ông được nhà vua bổ nhiệm giữ chức quan giám sát ngự sử tại triều. Sau này về làm án sát tỉnh Cao Bằng. Được một thời gia thì bị quân giặc bao vây thành Cao Bằng. Giặc quá đông, quân triều đình đến ứng cứu không kịp; thành Cao Bằng thất thủ, nhưng ông quyết không đầu hàng và để bị giặc bắt, ông đã tuẫn tiết. Được tin này nhà vua vô cùng cảm kích, thương tiếc một con người nghĩa khí nên ban cho được thờ ông tại đền Trung Liệt, Huế và ở tỉnh Cao Bằng.
Năm Ất Mão (1855), ông Nguyễn Lữ và người em trai là Nguyễn Tu cùng đậu cử nhân. Ông Nguyễn Lữ được bổ nhiệm làm tri phủ Nam Sách,Hải Dương. Khi chống trả giặc Pháp bị chết, vợ ông là bà Đỗ Thị Thương người họ Đỗ Đông Biện (con gái cụ đốc Đỗ Thời Viêm) đã huy động lực lượng quân còn lại chống giặc, vượt sông đánh giặc cướp lại thi thể chồng về an táng.
Hay gương sáng của võ quan Đề Điếm, vào năm Tự Đức XX (1867), khi dự thi hội võ ông đã trúng vào hạng ưu và đậu phó bảng về võ. Ông Đề Điếm đã cùng Ông Ích Khiêm và Tôn Thất Thuyết đi dẹp giặc phương Bắc. Thắng trận trở về đã được nhà vua sắc phong ông là đề đốc tỉnh Nam Định. Trong một trận chiến ác liệt với giặc Pháp tại thành Nam ông bị thương nặng vào bụng, chạy đến Vụ Bản thì qua đời. Hiện nay mộ ông Đề Điếm vẫn còn táng tại Bồng Trung (Đông Biện). Được tin ông hy sinh anh dũng vua Tự Đức vô cùng thương xót và ban thờ ông tại đình làng quê nhà.
Hòa vào những trang sử hào hùng chống ngoại xâm của dân tộc, làng Đông Biện xứ Thanh cũng đã gửi gấm không biết nhiêu những dấu ấn chói lọi tô điểm cho non sông đất nước Việt Nam.
Ngày 13 tháng 7 năm 1885, vua Hàm Nghi thất thủ ở Huế, Người hạ chiếu Cần Vương. Hưởng ứng chiếu Cần Vương chống Pháp của nhà vua, khắp mọi nơi trong cả nước phong trào Cần Vương chống Pháp nổi lên rầm rộ. Đặc biệt tại Bồng Trung tức Đông Biện, cụ nghè Tống Duy Tân cùng các con và ông tri phủ Lý Nhân Nguyễn Sự Chí là cháu ruột cụ Nguyễn Tu cùng đồng tâm nổi dậy chống háp. Thời gian này ông Tôn Thất Thuyết và tả quân Trần Xuân Soạn đã về Bồng Trung (Đông Biện), Thanh Hóa để trực tiếp chỉ đạo phong trào. Lúc này cụ nghè Tống Duy Tân trở thành lãnh tụ của nghĩa quân Thanh Hóa.
Vào ngày mùng 4 tháng 5 năm Bính Tuất (1886), đình làng Bồng Trung được sử dụng làm trụ sở của nghĩa quân để tổ chức cuộc họp lịch sử quan trong do ông Tôn Thất Thuyết đứng ra triệu tập. Ngày hôm đó, tại đây có mặt đầy đủ các thủ lĩnh chống pháp thời bấy giờ như Trần Xuân soạn, Hà Văn Mao,Phạm Bành, Đinh Công Tráng, Tống Duy Tân, Lê Ngọc Toản, Cầm Bá Thước, Nguyễn Khê...[cần dẫn nguồn]
Trong buổi tế cờ long trọng, tiến sỹ Tống Duy Tân cùng con trai là cử nhân Tống Nhữ Mai, với các ông Cao Điền (tướng cũ của Trần Xuân Soạn), Nguyễn Sự Chí, Trần Văn Khôi, Lãnh Đợi, Lãnh Tráng... ông Tôn Thất Thuyết công bố sắc phong tiến sỹ Tống Duy Tân làm tổng thống quân vụ, phụ trách toàn bộ phong trào Cần Vương chống Pháp ở Bắc Kỳ. Phía Bắc phong trào liên hệ với Đốc Ngữ ở Hòa Bình, Sơn Tây. Phía Nam liên hệ với phong trào Phan Đình Phùng. Tại Thanh Hóa có nhiệm vụ tập hợp các nghĩa quân như Cầm Bá Thước, Tôn Thất Hàn, Nguyễn Quý Yêm, Hà Văn Mao... Phong trào được gắn bó trên mảnh đất Đông Biện nên đã lấy tên của một ngọn núi của địa phương Đông Biện-Bồng Trung (núi Báo) là núi Hùng Lĩnh để đặt tên cho cuộc khởi nghĩa là "Cuộc khởi nghĩa Hùng Lĩnh".
Từ đấy phong trào được hoạt động tại Nông Cống, Thọ Xuân, Yên Định... Chủ lực quân được tổ chức gọn nhẹ, cơ động nhanh, phối hợp lại nhịp nhàng, do đó đã gây nhiều thiệt hại nặng nề cho quân Pháp.
Ngày nay Đông Biện - Bồng Trung vẫn toả sáng khắp mọi miền đất nước. Nhiều hạt giống đỏ đã nảy mầm và trưởng thành. Nhiều người trong các thời kỳ đã trở thành giáo sư, tiến sỹ, kỹ sư, bác sỹ, nhà văn, nhà thơ, nhà triết học, nhà khoa học, nhà giáo, nhà báo... đang hòa cùng vào nhịp sống đương đại hăng say công tác ở mọi miền của tổ quốc. Đặc biệt hơn có những người hiện đang giữ những vị trí quan trọng trong Đảng và Nhà nước. Tuy ở xa quê hương, nhưng họ vẫn luôn gủi gấm cả tình cảm thân yêu nhất về nơi cội nguồn của mình, làng Đông Biện - Bồng Trung, xứ Thanh.
Chú giải 1: vùng đất có nhiều người thành đạt đỗ đạt cao, nhiều người tài giỏi như Quốc Công Đỗ Nhuận, ông nghè Tống Duy Tân,Cử nhân Tống như Mai, Quan Án sát tỉnh Cao bằng Hoàng Tuấn Thăng tức Hoàng Tạo, Quan Đốc Học cử nhân Đỗ Thời Viêm, Quan Phó bảng đề đốc Lê Điếm thời vua Tự Đức, Tả thị Lang bộ hộ Nguyễn Huy Tế, An Thành Hầu Nguyễn Kim [cần dẫn nguồn], Chúa Nguyễn Hoàng [cần dẫn nguồn], Chúa Trịnh Kiểm [cần dẫn nguồn], Tri phủ Nam Sách Hải Dương Nguyễn Lữ ...