24/05/2018, 19:39

KINH TẾ HỌC CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG-PHẦN 4

Hoạt động kinh tế là một hoạt động khách quan xuất phát từ yêu cầu tồn tại và phát triển của nhân loại. Trong quá trình đó con người luôn luôn tìm cách đúc kết hoạt động của mình thành lý luận truyền cho đời sau và cứ thế tiếp tục. Do đó khi xem xét một ...

Hoạt động kinh tế là một hoạt động khách quan xuất phát từ yêu cầu tồn tại và phát triển của nhân loại. Trong quá trình đó con người luôn luôn tìm cách đúc kết hoạt động của mình thành lý luận truyền cho đời sau và cứ thế tiếp tục. Do đó khi xem xét một hiện tượng kinh tế - xã hội, ta phải xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể của quá trình sản xuất của cải vật chất cho xã hội chứ không thể xuất phát từ ý muốn chủ quan của cá nhân hay cộng đồng nào. Chính vì vậy mà tư duy kinh tế của con người luôn vận động, phát triển.

Trong quá trình hoạt động sản xuất, con người phải luôn luôn cải tiến công cụ sản xuất nhằm làm cho việc sử dụng tài nguyên có hiệu quả nhất, đồng thời phải bảo vệ được môi trường sống của mình. Trong nền kinh tế thị trường mọi quan hệ đều được tiền tệ hoá, đều được coi như là hàng hoá. Bởi vậy ta nhấn mạnh rằng đối tượng nghiên cứu của môn học là chất lượng môi trường chứ không phải là môi trường chung chung.

Khái niệm chất lượng môi trường là hàng hoá

Hàng hoá là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn được nhu cầu nào đó của con người và nó được sản xuất ra để bán.

- Chất lượng môi trường là yếu tố rất quan trọng của sự sống, nó đáp ứng nhu cầu cơ bản của con người (sống), điều đó khẳng định vai trò quan trọng của chất lượng môi trường.

- Quá trình lao động sản xuất của con người là quá trình con người tác động vào tự nhiên làm cho các vật thể tự nhiên trở nên phù hợp hơn với nhu cầu sử dụng của con người. Hành động đó của con người diễn ra trong một không gian cụ thể và theo một thời gian nhất định, như vậy chất lượng môi trường là điều kiện cần cho lao động sản xuất.

- Mọi quá trình lao động sản xuất bao giờ cũng đồng thời là quá trình tái sản xuất như tái sản xuất tư liệu lao động, sức lao động, tích luỹ vốn để mở rộng quy mô sản xuất. Trong quá trình lao động, các yếu tố sản xuất đều bị hao mòn đi cần phải bù đắp lại để quá trình sản xuất tiếp tục được thực hiện. Chính vì vậy mà môi trường trong quá trình lao động sản xuất cũng bị hao phí (giảm sút chất lượng) nên nó cũng cần phải tái sản xuất, đó là một tất yếu khách quan của sản xuất.

* Việc tái sản xuất chất lượng môi trường xét về hình thức, phạm vi trình độ là do trình độ phát triển sản xuất quy định, nó gắn liền với lịch sử phát triển sản xuất xét cả về chiều rộng và chiều sâu.

- Trong nền văn minh nông nghiệp, kinh tế tự nhiên, trình độ lạc hậu, quy mô nhỏ và phân tán, con người lệ thuộc nhiều vào thiên nhiên nên con người khai thác tự nhiên

chủ yếu theo chiều rộng, tần suất nhỏ, việc sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên không nhiều, do đó việc tái sản xuất chất lượng môi trường không cần đặt ra vì vẫn trong khuôn khổ tự điều chỉnh của hệ thống môi trường. Nói cách khác, do trình độ sản xuất của con người thấp nên không ảnh hưởng đến môi trường, con người không cần chi phí để giải quyết vì chất lượng môi trường không ảnh hưởng tới điều kiện sản xuất.

- Trong nền văn minh công nghiệp, với kinh tế hàng hoá phát triển đầy đủ để trở thành kinh tế thị trường trình độ trang bị kỹ thuật ngày càng hiện đại, công nghệ tiên tiến, lực lượng sản xuất phát triển ở trình độ cao, quy mô lớn mang tính chất xã hội thì mức độ khai thác tài nguyên thiên nhiên rất mạnh mẽ, nhiều về số lượng và chủng loại, tốc độ phục hồi môi trường không kịp với sự khai thác các thành phần môi trường của con người. Động cơ thúc đẩy sản xuất hàng hoá là lợi nhuận, lợi nhuận càng cao thì càng đứng vững trong thị trường cạnh tranh, điều đó thôi thúc các nhà sản xuất hạ thấp chi phí. Chính sức mạnh của lợi nhuận, sự khuyến khích của cơ chế thị trường đã dẫn dắt cả người sản xuất và người tiêu dùng không quan tâm đến chất lượng môi trường và môi trường thường xuyên bị biến đổi ở cả tầm vi mô và vĩ mô.

* Để bù đắp lại sự giảm sút về chất lượng môi trường, xét về mặt kinh tế, mỗi quá trình tái sản xuất đều phải có đầu tư, phải có chi phí. Chi phí môi trường có tính chất xã hội, đó là những chi phí rất lớn, do đó để hạn chế chi phí môi trường các quốc gia trên thế giới đã tìm nhiều biện pháp hạn chế chi phí bằng các giải pháp khác nhau như luật lệ, thuế khoá, khuyến khích bằng trợ cấp hoặc phạt bằng tiền.

Trong mấy chục năm gần đây, ở các nước trên thế giới đã xuất hiện mạnh mẽ ngành kinh tế dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu đời sống tinh thần và chăm lo sức khỏe cho cộng đồng (nghỉ ngơi, hưởng thụ thiên nhiên và đời sống nghệ thuật...). Chất lượng môi trường trở thành địa bàn kinh doanh của ngành dịch vụ, đồng thời tồn tại với ngành công nghiệp và nông nghiệp. Nói khác đi, khi ngành dịch vụ trở thành một ngành kinh tế thì chất lượng môi trường trở thành đối tượng tiêu dùng và sản xuất, nó trở thành một loại hàng hoá vì nó có thị trường tiêu thụ.

- Trong nền kinh tế thị trường các yếu tố sản xuất hữu hình được tiền tệ hoá, vì vậy yếu tố sản xuất là chất lượng môi trường cũng phải được tiền tệ hoá, bởi lẽ quá trình tái sản xuất chất lượng môi trường cần rất nhiều lao động và tiền vốn.

- Với tư cách là chi phí đầu vào của quá trình sản xuất, chất lượng môi trường phải được tính đúng tính đủ như các yếu tố quá trình sản xuất khác, coi như đó là cái giá phải trả cho việc sử dụng chất lượng môi trường tốt.

- Với tư cách là chi phí đầu ra trong điều kiện thị trường cạnh tranh thì giá cả của hàng hoá và dịch vụ phải bảo đảm chi phí để tái sản xuất chất lượng môi trường, nghĩa là không chỉ làm cho chất lượng môi trường không những khôi phục như cũ mà còn tốt hơn lên.

Tóm lại:

- Khi sản xuất phát triển ở trình độ cao thì tái sản xuất chất lượng môi trường được đặt ra như một yếu tố khách quan để cho quá trình sản xuất được liên tục, đó là điều kiện cần (nhu cầu con người).

- Kinh tế hàng hoá càng phát triển, các quan hệ kinh tế đã được tiền tệ hoá thì việc thực hiện chi phí khắc phục chất lượng môi trường cũng phải được biểu thị dưới hình thái tiền tệ, tức là phải có sự trao đổi mua bán chất lượng môi trường. Đây là điều kiện đủ.

Lúc nào, ở đâu chưa hội đủ 2 yếu tố đó thì chất lượng môi trường chưa thể trở thành hàng hoá được.

Đặc điểm của hàng hoá chất lượng môi trường

Bất cứ hàng hoá gì cũng có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị

- Giá trị sử dụng là công dụng của sản phẩm thoả mãn nhu cầu nào đó của con người, nó được quyết định bởi thuộc tính tự nhiên của sản phẩm đó và thể hiện ở việc sử dụng hay tiêu dùng của sản phẩm trong đời sống xã hội, nó thể hiện mặt vật chất của sản phẩm bất kể sản phẩm được sử dụng dưới thể chế chính trị hay hình thức xã hội nào. Giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn, nó thể hiện được quan hệ giữa con người và giới tự nhiên.

- Giá trị là lao động xã hội cần thiết của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong sản phẩm. Giá trị được định lượng bằng lượng giá trị gồm thời gian lao động và trình độ lao động (giản đơn hay phức tạp). Giá trị là một phạm trù lịch sử gắn liền với nền kinh tế hàng hoá. Trong kinh tế thị trường, người sản xuất ra sản phẩm không phải chỉ để cho mình sử dụng mà chủ yếu để trao đổi mua bán, thông qua sử dụng xã hội và quan hệ trao đổi trên thị trường giá trị trao đổi được xác định, đó là giá bán. Nói khác đi, giá trị biểu hiện ở giá trị trao đổi tức là giá bán. Giá trị sẽ được xác định chính xác khi nền kinh tế hàng hoá phát triển cao, cơ chế thị trường vận hành nhịp nhàng, chặt chẽ và thị trường cạnh tranh hoàn hảo.

Hàng hoá chất lượng môi trường mang đầy đủ hai thuộc tính đó và nổi rõ những điểm khác biệt sau đây:

* Về giá trị sử dụng

- Hàng hoá chất lượng môi trường nhờ vào các thuộc tính vật lý, hoá học, sinh học vốn có của nó (tính chất vật chất của đất, nước, không khí ...) đã thoả mãn rất nhiều nhu cầu của con người, do đó việc tiêu dùng chất lượng môi trường là điều không thể thiếu trong đời sống xã hội.

- Tuy vậy về giá trị sử dụng hàng hoá chất lượng môi trường thể hiện một số điểm khác biệt sau đây:

+ Mang tính cộng đồng cao, tính xã hội tuyệt đối

+ Vừa là đầu vào (tư liệu sản xuất) vừa là đầu ra (tư liệu tiêu dùng), vừa là nguyên liệu vừa là nhiên liệu của mọi quá trình sản xuất từ giản đơn đến phức tạp.

+ Tính đặc thù rất cơ bản là hàng hoá chất lượng môi trường trong quá trình sử dụng khó có thể phân định được. Vì vậy xét trên tính đặc thù này hàng hoá chất lượng môi trường là hàng hoá công cộng.

* Về giá trị

- Chất lượng môi trường được xác định bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra nó, nó kết tinh cả lao động cụ thể và lao động trừu tượng: lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng chất lượng môi trường, phải có hao phí sức lực của con người mới có chất lượng môi trường mong muốn. Giá trị hàng hoá chất lượng môi trường được quyết định bởi lao động trừu tượng (chất lượng lao động, hao phí thời gian, lao động trí tuệ). Vậy chất giá trị hàng hoá chất lượng môi trường là lao động trừu tượng.

- Về lượng giá trị hàng hoá chất lượng môi trường được đo bằng lượng thời gian lao động xã hội cần thiết và nó được lượng hoá theo quy tắc: nó tỷ lệ thuận với số lượng lao động và tỷ lệ nghịch với năng suất lao động.

Nếu con người tìm càng nhiều phương pháp làm sạch môi trường, càng có nhiều phương tiện làm sạch môi trường thì chất lượng môi trường càng cao nên giá trị môi trường tốt giảm đi, khi đó vì con người không cần phải mua hoặc mua với giá rẻ mạt do đó lượng giá trị chất lượng môi trường giảm đi, việc kinh doanh xử lý chất thải sẽ không còn là nhu cầu bức bách nữa.

- Sự khác biệt về lượng giá trị hàng hoá chất lượng môi trường là so với hàng hoá thông thường giá cả có xu hướng giảm xuống do năng suất lao động xã hội tăng nhanh, còn hàng hoá chất lượng môi trường có xu hướng tăng giá mạnh mẽ. Nguyên nhân thứ nhất là năng suất lao động xã hội tăng nhanh, tái sản xuất phi mã nhưng tái sản xuất chất lượng môi trường chậm hơn không tương xứng và thứ hai là nhu cầu xã hội về một chất lượng môi trường trong lành ngày càng tăng cả về lượng và chất. Mặt khác, trong điều kiện sản xuất xã hội phát triển mạnh mẽ hiện nay càng có nhiều sản phẩm vật chất với vô số chủng loại trong tiêu dùng xã hội thì chi phí làm tăng chất lượng môi trường càng cao: thuận lợi giảm đi, khó khăn tăng lên , chi phí lao động và vật chất cho chất lượng môi trường trở nên rất lớn tức là chi phí tái sản xuất chất lượng môi trường cao hơn nhiều so với chi phí tái sản xuất vật chất dẫn tới lượng giá trị chất lượng môi trường tăng nhanh.

Trong nhiều trường hợp, một tài nguyên môi trường có thể cung cấp các loại dịch vụ trái ngược nhau. Chẳng hạn, một vùng đất hoang dã có thể được sử dụng vào những mục đích giải trí mà không hề bị xâm phạm, hoặc khai thác cho mục đích thương mại thông qua việc khai thác gỗ. Mâu thuẫn trong việc sử dụng đất đã trở nên ngày càng nghiêm trọng trong hơn hai thập kỷ qua. ở nhiều nước, đặc biệt là ở những nước đang phát triển, chúng ta thấy mâu thuẫn giữa lợi ích của sự phát triển và lợi ích của sự bảo tồn môi trường đã trở nên nghiêm trọng. Sự lựa chọn là không thể tránh khỏi liên quan đến các tài nguyên môi trường nên chúng ta cần phải có một tiêu chí để làm tiêu chuẩn cho việc chọn lựa. Tiêu chí chúng ta sử dụng ở đây là phải cân bằng giữa lợi ích và chi phí kinh tế biên Q*: MSB = MSC hoặc W*: MAC= MDC.

Tiêu chí này bắt buộc chúng ta phải định ra giá trị tiền mặt của các loại hình dịch vụ mà các tài nguyên môi trường đem lại. Chúng ta phải định ra được mức độ lợi ích và các chi phí trong việc sử dụng các tài nguyên môi trường để định ra mức độ sử dụng tối ưu.

Chúng ta sẽ đi sâu vào phương thức đánh giá lợi ích thu được từ các tài nguyên môi trường. Sự đánh giá lợi ích này là rất khó. Nói chung việc tính toán các chi phí thì dễ hơn.

1.3.1. Các lợi ích thị trường và lợi ích phi thị trường

(i) Các hàng hoá tư nhân

Mối liên hệ giữa lợi ích và bằng lòng chi trả là mối quan hệ ràng buộc tỷ lệ thuận với nhau. Sự bằng lòng chi trả của mỗi cá nhân (đối với một mặt hàng) cho thấy giá trị tiền tệ mà người đó định ra cho mặt hàng đó. Và ngược lại, giá trị tiền tệ cũng cho thấy sức hút của mặt hàng đó với mỗi cá nhân.

Chúng ta thấy tổng số sẵn sàng chi trả của mỗi cá nhân hoặc tổng lợi ích từ việc tiêu thụ hàng hoá như sau:

Tổng WTP = giá thị trường x số lượng cầu + thặng dư tiêu thụ

Vùng bên trái phía dưới đường cầu biểu thị cách đo TWTP hoặc tổng lợi ích thu được từ việc tiêu thụ một loại hàng hoá. Nếu chúng ta muốn ước lượng TWTP của cá nhân đối với một loại hàng hoá thì ước lượng tốt nhất ban đầu về lợi ích phải là ước lượng về sức tiêu thụ (của khách hàng) đối với mặt hàng đó. Sức tiêu thụ này cho thấy đánh giá chất lượng ban đầu của người tiêu dùng đối với mặt hàng. Chúng ta gọi lợi ích này là lợi ích thị trường bởi vì giá trị được định ra ở trên thị trường.

(ii) “Hàng hoá” môi trường

Việc đánh giá lợi ích thu được từ các loại hàng hoá và dịch vụ từ môi trường hiển nhiên là khó hơn nhiều so với việc đánh giá lợi ích thu được từ các loại hàng hoá cá nhân.

(a) Lợi ích thị trường: việc kiểm soát được mức độ ô nhiễm môi trường sẽ nâng cao chất lượng của môi trường. Điều này có thể dược gọi là lợi ích thị trường. Ví dụ, việc nạo vét một con sông sẽ làm tăng sản lượng cá, tạo ra sức hút lớn đối với các loại hình du lịch; chi phí cho y tế và số ngày nghỉ việc do mắc bệnh từ nước của người lao động sẽ được giảm xuống.

Tất cả các lợi ích này có thể tính được ra thành tiền bởi vì các loại hàng hoá và dịch vụ này đều đã được định giá.

(b) Lợi ích phi thị trường: các hoạt động vui chơi giải trí trên sông ví dụ như bơi thuyền, bơi lội, câu cá sẽ tăng lên; chủng loại các loài sinh vật ở sông sẽ đa dạng hơn rất nhiều và số người chết sớm do mắc các bệnh vì nguồn nước bẩn sẽ giảm xuống.

Đáng tiếc là các loại “hàng hoá” trên không được đưa ra kinh doanh trong bất cứ thị trường nào, do đó chúng không hề được định giá, đó là các loại hàng hoá phi thị trường. Để đánh giá lợi ích phi thị trường chúng ta phải ước lượng hay suy đoán số tiền mà mọi người sẵn sàng chi trả (hay sẵn sàng chấp nhận) cho những lợi ích này.

Vì vậy, chúng ta phải xác định cách mọi người đánh giá về các lợi ích thị trường và phi thị trường thu được từ các tài nguyên môi trường.

1.3.2. Những khó khăn trong việc đánh giá lợi ích

  1. Các tài nguyên môi trường là loại hàng hoá phi thị trường, không có một thị trường nào mà người ta trao đổi hay mua bán chất lượng của môi trường, cho nên chúng ta không có giá cả sẵn có trên thị trường để làm thước đo tương đối cho việc đánh giá giá trị hay lợi ích.
  2. Các tài nguyên môi trường đem lại cả lợi ích thị trường lẫn lợi ích phi thị trường.
  3. Nhu cầu của cá nhân đối với các tài nguyên môi trường nhìn chung là không thể kiểm soát được bởi vì đó là “hàng hoá” phi thị trường.

1.3.3. Giá trị của các hàng hoá môi trường: Tổng giá trị kinh tế

Giá trị, xét về góc độ kinh tế, là một khái niệm nhân tâm, nghĩa là giá trị được xác định bởi con người trong xã hội chứ không phải do chính quyền hay quy luật của tư nhiên quy định.

Cách tiếp cận việc đánh giá giá trị gồm có tiếp cận sinh tâm và “học thuyết năng lượng của giá trị”. Tiếp cận sinh tâm không đánh giá giá trị dựa trên sự thoả mãn nhu cầu của con người. Giá trị phải dựa trên vai trò sinh thái hay quan điểm sâu sắc về sinh thái, nghĩa là việc sử dụng các tài nguyên môi trường nhằm thoả mãn bất kỳ nhu cầu nào của con người, ngoại trừ các nhu cầu cần cho sự sống của con người, đều là phi đạo đức. Bởi vì tất cả các thành phần của hệ sinh thái, bao gồm hệ sinh thái, đều có giá trị thực chất của nó và có quyền được tồn tại dưới dạng bất biến. “Thuyết năng lượng của giá trị” coi năng lượng như là một đơn vị tiền tệ để trao đổi và giá trị của bất cứ thành phần nào của hệ sinh thái cũng được tính bằng năng lượng thể hiện trong chính nó. Vấn đề then chốt trong “học thuyết năng lượng” này là ở chỗ nó không coi trọng tính khan hiếm của mỗi thành phần. Ví dụ như một con ngỗng nhà có thể được coi là có giá trị hơn một con sếu là một trong những loài bị đe doạ.

Mặc dù định nghĩa của các nhà kinh tế về giá trị vẫn chưa được hoàn toàn chấp nhận, nó vẫn là một đóng góp to lớn khi nó đem đến cho chúng ta một cách nhìn sâu sắc giúp cho chúng ta có những quyết định đúng đắn.

Các nhà kinh tế đã phát triển một nguyên tắc phân loại các giá trị kinh tế khi liên hệ với môi trường tự nhiên. Có 3 phương pháp khác nhau để đánh giá giá trị: giá trị sử dụng, giá trị lựa chọn và giá trị tồn tại.

  1. Giá trị sử dụng: các nhà kinh tế phải tính giá trị sử dụng, là loại giá trị được rút ra từ hiệu quả sử dụng thực của môi trường. Người câu cá, thợ săn, người đi dạo… tất cả đều sử dụng môi trường và thu được lợi ích mà không phải trả tiền thực tiếp.

(ii)Giá trị lựa chọn: mỗi cá nhân có thể tự đánh giá cách lựa chọn để sử dụng môi trường hay tài nguyên môi trường trong tương lai. Giá trị lựa chọn là giá trị của môi trường như là lợi ích tiềm tàng trong tương lai khi nó trở thành giá trị thực sử dụng trong hiện tại. Mỗi cá nhân có thể biểu lộ sự sẵn sàng chi trả cho việc bảo vệ môi trường để chống lại những khả năng sử dụng của một người nào đó trong tương lai.

Giá trị lựa chọn còn có thể bao gồm cả giá trị sử dụng của những người khác (nghĩa là lợi ích gián tiếp mà bạn thu được từ giá trị sử dụng của những người khác. Bạn cảm thấy hài lòng khi thấy những người khác cũng thu được những lợi ích nên bạn sẵn sàng chi trả cho việc bảo vệ môi trường để đem lại lợi ích cho người khác) và giá trị sử dụng bởi các thế hệ tương lai (giá trị truyền lại là sự sẵn lòng chi trả để bảo vệ môi trường để đem lại lợi ích cho con cháu của chúng ta).

Giá trị lựa chọn = giá trị sử dụng cá nhân + giá trị sử dụng bởi những người khác + giá trị sử dụng bởi các thế hệ tương lai

Tổng giá trị người sử dụng thu được = giá trị thực sử dụng + giá trị lựa chọn

(iii) Giá trị tồn tại: các tài nguyên môi trường đều có giá trị thực nội tại của chính bản thân chúng. Giá trị này không liên quan đến việc sử dụng nên được gọi là giá trị phi sử dụng. Giá trị sử dụng là những vấn đề đạo đức như sự xuống cấp của môi trường, sự cảm thông đối với các loài sinh vật. Ví dụ như mỗi cá nhân đều cảm thấy hài lòng với việc bảo vệ các cá thể còn lại của một số loài như loài cú đốm hay loài cá voi xanh lưng gù. Hầu như tất cả mọi người đều coi trọng sự tồn tại của các loài này hơn là chỉ đơn giản thích thú ngắm nhìn chúng. Họ đánh giá cao sự tồn tại của chính các loài vật này.

Tổng giá trị của các tài nguyên môi trường được tính bằng tổng của cả 3 thành phần nói trên:

Tổng giá trị kinh tế = giá trị thực sử dụng + giá trị lựa chọn + giá trị tồn tại

= giá trị sử dụng + giá trị không sử dụng

1.3.4 Các phương pháp đánh giá giá trị

Để đánh giá giá trị của hàng hoá môi trường, người ta xem xét các mặt sau:

(i) Tổng giá trị kinh tế của tài nguyên môi trường. Lý tưởng nhất là chúng ta có thể sử dụng một phương pháp mà đánh giá được cả giá trị sử dụng lẫn giá trị không sử dụng.

(ii) Lợi ích thu được từ sự thay đổi (tăng lên hay giảm đi) của chất lượng môi trường

Người ta thường sử dụng 2 phương pháp sau để đánh giá những lợi ích thu được từ việc cải tạo chất lượng môi trường:

  1. Đánh giá trực tiếp thông qua sự giảm xuống của những thiệt hại về môi trường. Với phương pháp này ta có thể tính được hàm số thiệt hại cận biên.
  2. Đánh giá các loại lợi ích (chính sách, WTA, WTP) gián tiếp (giá trị của sức khoẻ con người được đánh giá thông qua các chi phí bỏ qua; giá trị cuộc sống của con người được tính bằng tỷ lệ dương; giá trị của chất lượng môi trường được tính bằng giá nhà hay còn gọi là định giá khả quan; sự trong lành của môi trường được đánh giá thông qua chi phí đi lại) hoặc trực tiếp (định giá ngẫu nhiên). Với phương pháp này, ta tính được hàm số cầu.

Phương pháp đánh giá gián tiếp, còn gọi là phương pháp tính dựa trên sự lựa chọn của cá nhân, xem xét quyết định của cá nhân dựa trên tính hữu dụng hay độ trong lành của môi trường bởi vì quyết định này cho ta thấy giá trị của độ trong lành. Nhược điểm chính của phương pháp tính gián tiếp này là chỉ đánh giá được giá trị sử dụng chứ không đánh giá được giá trị không sử dụng.

Phương pháp đánh giá trực tiếp cho ta biết các giá trị bằng cách phỏng vấn trực tiếp các cá nhân. Ưu điểm lớn của phương pháp này là người ta có thể đo được cả giá trị sử dụng lẫn giá trị không sử dụng.

1.3.5. Hàm số tương quan của MD và WTP

Về phương diện lý thuyết, một hàm số thiệt hại cận biên biểu thị chính xác những thông tin về cầu hoặc là hàm số WTP về chất lượng môi trường.

Tuy nhiên, trong thực tế, những hàm số này sẽ trùng nhau khi và chỉ khi chúng ta ước lượng chính xác toàn bộ những thiệt hại mà con người hoặc hệ sinh thái phải gánh chịu cũng như toàn bộ những lợi ích tích luỹ được của con người hoặc hệ sinh thái.

Sau đây là những vấn đề gặp phải khi đánh giá thực tế. Để đánh giá được chính xác “những thiệt hại” hay “những lợi ích” chúng ta phải tính được những giá trị thị trường và phi thị trường. Nhìn chung, đánh giá những thiệt hại phi thị trường khó hơn đánh giá những lợi ích phi thị trường.

Ví dụ: những đánh giá những lợi ích thu được từ việc giảm lượng chì trong nước uống.

Khi lượng chì trong nước uống được giảm đi thì sẽ tốt cho sức khoẻ con người. Ví dụ như tỉ lệ mắc phải bệnh huyết áp cao và bệnh tim ở người lớn cũng như giảm trí thông minh ở trẻ em sẽ được giảm xuống. Để xác định được những lợi ích đó chúng ta cần phải:

  1. Đánh giá những thiệt hại về sức khoẻ trực tiếp thông qua việc tính toán sự tương tác giữa lượng chì có trong nước và tỷ lệ mắc bệnh.
  2. áp dụng các phương pháp gián tiếp để xác định số lượng tiền các cá nhân đã thực sự chi trả để tránh hay ngăn ngừa lượng chì đó.
  3. Sử dụng phương pháp trực tiếp để suy ra WTP/WTA của mỗi cá nhân để làm giảm những nguy hại cho sức khoẻ do lượng chì trong nước gây ra.

(i) Đánh giá thiệt hại:

Để tính được hàm số thiệt hại môi trường chúng ta cần:

1. Đo lường phát thải

2. Xác định kết quả chất lượng môi trường Các nhà vật lý học

3. Ước tính tình trạng của con người

4. Đánh giá những tác động đến sức khoẻ, thẩm mỹ, giải trí các nhà sinh vật học, các nhà dịch tế học

Sự liên hệ giữa 3 và 4 được gọi là hàm số tương tác. Hàm số này cho ta biết mối quan hệ tương tác giữa sức khỏe con người với các cấp độ tình trạng khác nhau với tác nhân gây ô nhiễm môi trường.

5. Ước lượng giá trị của những tác động này Các nhà kinh tế

Ví dụ: Đánh giá những thiệt hại về sức khoẻ

Chúng ta có thể đánh giá được những thiệt hại về sức khoẻ do ô nhiễm không khí gây ra (ví dụ như các bệnh viêm phế quản, tràn khí, ung thư phổi có nguồn gốc một phần do sự lưu cữu các chất thải là tác nhân gây ô nhiễm môi trường như khí SO2 và các chất khí khác) bằng cách ước tính mối quan hệ tương tác giữa sức khoẻ con người với các chất thải là tác nhân gây ô nhiễm môi trường.

Đáng tiếc là sức khoẻ con người còn bị ảnh hưởng bởi những yếu tố khác như lối sống, chế độ ăn uống, những yếu tố di truyền. Chúng ta cần những số liệu chuẩn về nhân tố sức khoẻ để phân loại những tác động của môi trường. Nghiên cứu vấn đề này cho thấy các kết quả mà ta thu được là tương đối khớp với các số liệu ta đã sử dụng nhưng lại chưa đủ tính thuyết phục. Chúng ta cần phải tìm ra các phương pháp đánh giá khác thuyết phục hơn và hoàn chỉnh hơn. Chúng ta cũng có thể kiểm tra chi phí trả cho dược phẩm và số liệu hiệu suất mất đi để đo những thiệt hại sức khoẻ. Vấn đề ở chỗ đây là những tiêu chuẩn đánh giá mà qua đó chúng ta đo được giá trị hàng hoá trên thị trường và những dịch vụ chứ không đánh giá được những giá trị phi thị trường của sức khoẻ.

Như đã đề cập trên, hàm số thiệt hại cận biên khi yếu tố phát thải tăng lên chứa đựng những thông tin như một hàm cầu / hàm số WTP cho các yếu tố phát triển giảm xuống. Vấn đề nổi lên trong việc đánh giá những thiệt hại trực tiếp là chúng ta chỉ có thể ước lượng những giá trị thị trường hoặc giá trị sử dụng, điều này sẽ cho chúng ta một tiêu chuẩn đánh giá hoàn chỉnh. Tuy nhiên chúng ta cũng sẽ mất đi những giá trị phi thị trường như giá trị lựa chọn và những giá trị tồn tại. Điều khó khăn khi đánh giá những thiệt hại thực mà lại không đúng như khái niệm của chính nó.

(ii) Đánh giá nhu cầu hay WTP

Để ước lượng chính xác được giá trị, chúng ta phải đánh giá được cả những giá trị lợi ích thị trường hoặc phi thị trường. Nhìn chung, việc đánh giá lợi ích phi thị trường bằng việc xác định số tiền cá nhân sẽ chi ra cho việc cải thiện môi trường là khá dễ dàng.

Ví dụ:Giả sử kết quả của một cuộc điều tra vào mùa hè đối với việc tiêu dùng một khu cảnh quan thiên nhiên biểu diễn bằng các bảng sau:

Bảng 2.4. Nhóm người thu nhập trung bình. (1)

WTP (10.000đ) 0,5 1 1,5 2 2,5
Số người (100) chấp nhận
A 3,3 2,6 2 1,3 0,7
B 6 5,2 4,3 3,5 2,5

Bảng 2.2. Nhóm người thu nhập cao. (2)

WTP (10.000đ) 1 2 3 4 5 6 7 8
Số người (100) chấp nhận
A 6,8 5,4 4 2,8 1,4 0
B 8,6 8 7,2 6,3 5,2 4,8 4 3,2

Từ bảng 2.1 ta vẽ đường cầu từng nhóm và dùng quy tắc cộng theo chiều dọc ta có cầu thị trường của nhóm (1) suy ra D1 = f1(Q).

Từ bảng 2.2 ta vẽ đường thị trường của nhóm (2) suy ra D2 = f2(Q).

(1). Nhóm thu nhập trung bình.

(2). Nhóm thu nhập cao.

Từ hai đường D1 và D2 dùng quy tắc cộng theo chiều dọc ta tìm được đường D­ là cầu thị trường của việc tiêu dùng khu bảo tôn mà diện tích dưới đường cầu là tổng lợi ích của xã hội khi sử dụng khu bảo tồn, đó cũng là giá trị hàng hoá môi trường của khu bảo tồn tính thành tiền.

Vậy chính phủ nên cung với giá bao nhiêu cho việc tiêu dùng? Trên đồ thị ta thấy:

- Nếu chính phủ có MC = 20.000đ thì nhóm A tiêu dùng miễn phí.

- Nếu chính phủ có MC = 60.000đ thì nhóm A không có cơ hội tiêu dùng.

- Vậy chính phủ có thể đặt mức 60.000 > MC = P>20.000.

áp dụng phương pháp này ta có thể đánh giá chất lượng môi trường khi tiêu dùng nó trong rất nhiều trường hợp chẳng hạn:

- Việc định giá thu gom rác thải trên đường phố nhằm tạo ra môi trường không khí trong lành.

- Việc định giá tiêu dùng nước sạch của công ty nước sạch.

Vấn đề cần xem xét là: những hàm cầu của hàng hoá môi trường không thể kiểm soát được một cách trực tiếp. Chúng ta không thể thấy được giá trị thị trường trực tiếp của những hàng hoá này cho nên chúng ta cần dùng biện pháp nội suy hoặc ước lượng những hàm cầu.

Công việc đầu tiên khi đánh giá những lợi ích là phải vượt qua những vấn đề thiên vị phát giác, sau đó quay lại kiểm tra những thông số kỹ thuật mà các nhà kinh tế đã dự kiến, qua đó tìm ra những giá trị để đo những lợi ích của môi trường.

1.3.6. Phương pháp đánh giá giá trị lợi ích trực tiếp và gián tiếp

a. Phương pháp gián tiếp:

Phương pháp đánh giá giá trị gián tiếp được dựa trên sự lựa chọn của cá nhân. Số liệu sẵn có chứa đựng những thông tin về sự lựa chọn của các cá nhân dựa vào tầm quan trọng của môi trường.

Phương pháp đánh giá gián tiếp đối với giá trị của hàng hoá môi trường được tìm ra từ những giá trị của các thị trường liên quan như thị trường bất động sản, chi phí cho hoạt động giải trí hay mức đền bù thoả đáng để các cá nhân sẵn sàng chấp nhận mạo hiểm. Sự ưu đãi hay WTP của một cá nhân đối với hàng hoá môi trường được thể hiện qua WTP của họ đối với các loại hàng hoá liên quan gián tiếp đến môi trường. Phương pháp đánh giá gián tiếp áp dụng cho từng cá nhân và ước lượng tổng số WTP và WTA sử dụng giá trị gián tiếp.

Một số giá trị thông thường sử dụng những phương pháp đánh giá gián tiếp là:

- Giá nhà ở gần nhà máy, khu công nghiệp thấp hơn giá nhà ở xa các khu đó vì ô nhiễm không khí, nguồn nước.

- Những người sống gần các khu công nghiệp thường có chi phí vệ sinh, y tế cao hơn các vùng khác, đó là giá môi trường mà họ mua.

- Chênh lệch giá giữa giá nước được cung cấp và giá nước phải tự kiếm thay thế cho nguồn nước bị ô nhiễm là một chi phí do môi trường ô nhiễm.

- Xây dựng hệ thống thoát nước hoặc xây dựng đê điều để giảm lũ lụt bảo vệ đất tạo ra cảm giác an toàn trong cuộc sống, đó là những lợi ích mang lại rất to lớn. Vậy đánh giá những lợi ích đó bằng cách nào? Những lợi ích này có thể được xem xét thông qua những khía cạnh cơ bản như: Giảm chi phí cứu trợ, chi phí từ thiện khi có lũ lụt. Giảm chi phí chống lụt, di dân, ngừng sản xuất ở ngoài vùng lũ lụt gây thiệt hại kinh tế cho cộng đồng dân cư lớn hơn. Cộng đồng dân cư nông nghiệp có nghề phụ thì thu nhập từ nghề phụ của người sống trong vùng có lũ lụt thấp hơn ở ngoài vùng đó vì họ phải chi phí thời gian và tiền bạc cho chống lũ lụt.

- Khi có việc bảo vệ đất qua chống lũ lụt thì năng suất tăng lên do phù sa ở hạ lưu sông hoặc lượng điện được phát tăng lên do đất không lắng đọng ở hồ chứa nước, tăng tuổi thọ của các máy phát điện, đó là phần đánh giá lợi ích của việc chống lũ bảo vệ đất.

b. Phương pháp trực tiếp:

Các phương pháp trực tiếp được đề ra nhằm tính giá trị các nguồn tài nguyên môi trường bằng cách nghiên cứu thái độ của người dân sẽ như thế nào khi chất lượng môi trường thay đổi (lựa chọn thành phố, nhà trong thành phố, nghề nghiệp, hoạt động giải trí).

Các phương pháp đánh giá giá trị bằng cách sử dụng phương pháp trực tiếp nên dựa trên việc đặt ra các câu hỏi mang tính giả thiết cho từng cá nhân hơn là xem xét sự lựa chọn thực sự của bản thân họ.

Đánh giá trực tiếp còn có thể dựa trên cơ sở những chi phí bỏ ra cho khắc phục môi trường có thể nhìn thấy được.

Ví dụ:Các thống kê cho thấy để khôi phục một khu rừng do bị phá để khai thác khoáng sản bao gồm các chi phí.

Trả lại tầng địa giao (chất liệu đất trên bề mặt) 3,1%
Đặt lớp đất thịt (tầng canh tác) 2,6%
Rải lớp đất màu và chất hữu cơ 86%
Phủ thảm cỏ xanh bề mặt 6,5%
Trồng cây con để tạo lớp che phủ như cũ 1,8%

Chi phí khôi phục lại môi trường đất là chủ yếu trong chi phí khôi phục vì đó là chi phí cơ bản để cây có thể phát triển. Kinh nghiệm ở Australia cho thấy chi phí khôi phục này là 232854$/ha.

Đây chỉ là chi phí tối thiểu vì trong đó ta chưa tính đến chi phí chăm bón để sao cho một số năm tối thiểu, vùng đất khai thác sẽ được phủ xanh; chưa tính đến chi phí về sự xáo trộn điều kiện môi trường của động vật hoang dã, sự giảm sút nghiêm trọng động vật rừng; chưa tính đến chi phí do sự ô nhiễm, cạn kiệt nguồn nước mà hoạt động khai thác trước đây gây ra...

0