Kiểm tra phần văn trang 137 Văn 7, Oan Thị Kính là thành ngữ nhân gian gợi những nỗi oan trái ở cuộc đời Thị Kính trong cả vở chèo Quan Âm...
Kiểm tra phần văn – Kiểm tra phần văn trang 137 SGK Ngữ văn 7. Oan Thị Kính là thành ngữ nhân gian gợi những nỗi oan trái ở cuộc đời Thị Kính trong cả vở chèo Quan Âm Thị Kính. Đó là nỗi oan xâu chuỗi nhiều nỗi oan cho nên mỗi lúc một đau khổ, bi thảm, mỗi lúc một bế tắc cùng quẫn. 1. Có ...
1. Có thể chọn chép một bài ca dao nào mà mình thích. Sau đó, phân tích hài đó. Chẳng hạn:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ru
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
– Hai đòng thơ đầu dùng nghệ thuật so sánh để ví “công cha nghĩa mẹ”, vốn là hai khái niệm khá trừu tượng thành cụ thể.
+ Nói đến hình ảnh “núi Thái Sơn” là nói tới ngọn núi:
To lớn, hùng vĩ
Nơi các vua chúa thường lên đây để cầu mong mưa thuận gió hòa, thiên hạ thái bình nên nó rất linh thiêng
+ Hình ảnh “nước trong nguồn” là:
Nơi khuất kín ít ai biết tới.
Nơi cội nguồn để có suối, có sông, cổ biển cả.
Sự chắt chiu từng giọt trong lành không bao giờ vơi cạn.
+ Cả hai hình ảnh này đã gợi rất sâu “công cha nghĩa mẹ” đối với người con.
– Hai dòng sau là lời khuyên nhủ ân cần mà tha thiết. Nó nêu lên một thứ tình cảm mà con người phải quí trọng: “Trong trăm thứ đạo, đạo hiếu làm đầu”. Dù có đi theo tôn giáo nào đi nữa thì cái đạo lớn nhất, tôn giáo lớn nhất là “thờ mẹ kính cha”.
2. Chép một bài thơ trữ tình thuộc phần văn học trung đại.
Chẳng hạn bài: BÁNH TRÔI NƯỚC (Hồ Xuân Hương)
Thân em thì trắng phận em tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
– Nội dung của bài thơ nó tồn tại song song ý nghĩa kép: vừa miêu tả chính xác cái bánh trôi nước lại vừa chuyển cái nghĩa ấy một cách kín đáo để nói về thân phận cá nhân của một người phụ nữ xưng “Em”
+ Trắng và tròn là màu và hình ảnh của bánh trôi nước. Nhưng thân và phận gắn với hai đặc tính này lại cho ta thấy nhân vật “Em” tự đánh giá mình một cách kiêu hãnh phẩm chất trắng trong, hoàn mĩ (vuông, tròn) của mình.
+ Ấy vậy mà nghịch cảnh: “Bảy nổi ba chìm”, nay đây mai đó, phiêu dạt không yên chỗ trong gia thất.
+ Lí do của thân phận như vậy là bởi những con người không biết tôn trọng phẩm giá của phụ nữ gây nên. Chiếc bánh trôi nước được rắn hay nát trong nổi chìm của nồi nước sôi là phụ thuộc lay của kẻ nặn ra nó. Còn nhân vật “Em” dù cho thân phận bị đời minh hắt minh phải long đong thì vẫn giữ được tấm lòng chung thùy son sắt.
+ Biết rằng đời bị vùi dập, hắt hủi nhưng tự khẳng định bản chất tốt đẹp và thủy chung với chính bản chất ấy là điều rất đáng quý ở bài thơ này.
– Thân trắng, phận tròn, tấm lòng son dù cho bảy nổi ba chìm. Mặc dầu kẻ nặn ra bánh làm rắn hay nát bánh nhưng mà nhân vật “Em” vẫn giữ tấm lòng son sắt trước hết là với bản chất của mình.
Tác giả đã dùng màu sắc, thành ngữ, dùng cấu trúc câu đối lập rất độc đáo để chuyển mọi chi tiết hình tưựng chiếc bánh trôi nước thành hình tượng một người phụ nữ dỗ thương, tội nghiệp và đáng kính trọng.
3. Chép lại bài thơ Đường mà em thích.
Chẳng hạn:
ĐÊM ĐỖ THUYỀN Ở PHONG KIỀU(SGK, trang 112, Tập 1)
Nguyệt lạc, ô đề, mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đổi sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
– Hai dòng thơ đầu cho ta hình dung một không gian, trống trải cô lạnh ở bầu trời và dưới bờ bài sông nước. Cảnh im phăng phắc không một bóng người.
+ Câu đầu cho ta hình dung mảnh trăng ở cuối trời xa đã thấp phía chân trời. Trong cái chợt thức của con quạ, nó nhìn trăng tà đã rụng xuống. Nó đâu biết rằng thời gian từ lúc nó ngủ đốn lúc này là một khoảng khá dài.
Vì quá sợ cái điều đột ngột này (đột ngột ở con quạ, chứ không phải đột ngột với chúng ta!) mà quạ đã kêu lên trong sự im lìm của muôn vật lặng tờ dưới ánh trăng suông. Hình như bất ngờ trước sự đánh thức của tiếng quạ, những giọt sương bị đánh thức. Chúng đồng loạt rơi lừ nhành sương, nơi quạ đứng. Cũng có thể hiểu, quạ kêu sương khói tới đầy trời.
+ Câu thứ hai cho ta hình dung đông lửa của người chài lưới bên sông đã lụi tàn. Lâu lâu những chiếc lá phong khô rơi vào nó lại bùng lên soi rõ một người khách đang ngủ mệt mà môi sầu xa xứ vẫn cứ vấn vương trong mộng.
+ Cả hai câu chỉ có không gian nhưng nó cho ta hình dung được thời gian lúc này là còn rất sớm, còn quá sớm.
– Hai dòng sau muốn nhấn mạnh tiếng chuông chùa Hàn Sơn. Dù nó ở ngoài thành Cô Tô nhưng chắc hẳn là nới rất xa với nơi thuyền khách ngủ. Tiếng chuông ấy đã đôn vào lúc nửa đêm đã đánh thức khách dậy trong một tâm trạng man mác, trong một đêm xa quê thao thức đỗ thuyền ở bến Phong Kiều.
4. Có thể chép lại hai câu sau:
Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa
Dạ bán quy lai, nguyệt mãn thuyền.
– Câu đầu không gian hẹp hơn. Nó gợi một nơi yên tĩnh giữa núi rừng. Trăng lồng vào trong lá cành của cây cổ thụ khiến cho vòm lá nơi tối nơi sáng, lóng lánh đan xen trăng và lá. Bóng trăng qua tầng cao của cổ thụ, tiếp tục lồng với hoa ở dưới thấp. Trăng đã hòa nhập, đã trở nên linh hồn cho tạo vật, nó lung linh kì ảo và kết hợp hoa lá xôn xao sự sông.
– Câu sau phảng phất thơ Đường. Câu thơ Trương Kế “Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền” gợi cảm giác rất buồn, rất lẻ loi thì câu thơ của Bác chủ động hơn. “Bác và các đồng chí của mình sau khi bàn việc quân giữa chốn thần tiên nơi khói sóng quây tụ trên sông đã “qui lai” (quay về). Con thuyền chở người đã trở thành con thuyền chở trăng.
Câu thơ nói về tâm hồn lạc quan phơi phới. Sau khi việc nước đã bàn, Bác tự cho phép hồn mình đắm đuôi với trăng rằm tháng giêng trên sông nước.
5. Qua việc hồi tưởng lại cảnh mùa xuân trên đất Bắc. Vũ Bằng đã bộc lộ một tình cảm gắn bó nhớ nhung da diết với gia đình, với quê hương. Đó là nỗi nhớ những cảnh sắc thiên nhiên, phố xá cuộc sống những ngày xuân ở Hà Nội. Những cảnh vật, lễ nghi ấy mang vẻ đẹp rất riêng, rất tinh tế. Nó là bản sắc văn hóa dân tộc từ vùng đất của người Tràng An Hà Nội nhưng đồng thời cũng là của chung đất nước quê hương ở mọi miền khác. Phải yêu thương quê hương bản sắc văn hóa dân tộc sâu xa mới có những cảm xúc nhạy bén về mùa xuân như vậy!.
6. Có thể chọn hai câu:
– Chị ngã em năng.
– Không thầy đố mày làm nên.
Cả hai đều diễn đạt thật giản dị. Nó như cách nói hằng ngày (khẩu ngữ)
– Thử đảo lại câu đầu:
+ Em ngã chị năng” thì nó quá hiển nhiên. Xưa nay trách nhiệm của các thành viên trong gia đình Việt Nam thường được nhìn nhận theo kiểu “nước mắt chảy xuôi”. Người chị dĩ nhiên phải nâng phải đỡ em khi em ngã.
+ Câu tục ngữ muốn nói sâu hơn quan hệ chị em trong một mái nhà. Em quan tâm tới chị. Dĩ nhiên ngã ở đây là muôn nói lới sự thất bại, những lỗi lầm, thậm chí sự sa ngã. Chính lúc ấy “em” gái là người hiểu chị nhất, phải săn sóc hằng tinh thần nhiều nhất cho chị. Từ “năng ” biểu hiện sự yêu thương đùm bọc đó. Tuy nhiên câu này có ý nghĩa rộng hơn. Giúp đỡ những người bất hạnh.
– Câu sau đã nói điều hiển nhiên. Trong nghĩa khẳng định thì: “Nhờ có thầy mà con người ta mời có sự nghiệp”. Nếu hiểu thầy theo nghĩa rộng hơn (thầy dạy nghề, thầy dạy văn hóa chẳng hạn) thì câu trên luôn đúng.
Cái sâu xa của câu lục ngữ này là lời nghiêm khắc cảnh cáo một cô cậu học trò nào đó “Áo mặc chưa qua khỏi đầu” mà đà hiểu hiện những sự khinh nhờn, thiếu tôn trọng thầy. Đây là sự cảnh báo về nhân cách học sinh của bậc làm cha chú. Như vậy, muôn là học trò thì trước hết phải có nhân cách, phải biết yêu kính thầy. Từ đây mà ngầm nói với ta rằng: Làm thầy trước hốt là phải có nhân cách. Học trò trước hốt nhìn vào nhân cách của thầy. Sau đó, chúng mới nhìn vào kiến thức của thầy.
7 & 8. Xem lại bài học
9. Tương phản là việc sử dụng các từ ngữ có màu sắc trái ngược nhau, nằm trong mối quan hệ đối chọi nhau, có khả năng liên tưởng đến những hình tượng nhân vật, sự vật hiện tượng phức lạp (có những nét mâu thuẫn mà thông nhất).
– Xem lại câu 2 SGK, trang 81
Xem lại phần trả lời câu 2 ờ sách này trong bài Sống chết mặc bay
10. Xem lại bài giảng của thầy, cô hoặc phần hướng dẫn Đọc – Hiểu văn văn bản ở sách này. Đó là câu 3c ở trang 94, SGK.
11. Oan Thị Kính là thành ngữ nhân gian gợi những nỗi oan trái ở cuộc đời Thị Kính trong cả vở chèo Quan Âm Thị Kính. Đó là nỗi oan xâu chuỗi nhiều nỗi oan cho nên mỗi lúc một đau khổ, bi thảm, mỗi lúc một bế tắc cùng quẫn.
– Thị Kính có hai nồi oan lớn: Án giết chồng và án hoang thai. Có lẽ Thị Kính là nơi tập trung cho những oan khổ tột cùng của người phụ nữ trong chế độ phong kiến. Vì thế, Oan Thị Kính là muôn nói những nỗi oan ghê gớm mà người lương thiện mắc phải.