24/05/2018, 19:27

Khan hiếm tài nguyên không có khả năng tái sinh-phần2

Cùng với quá trình gia tăng dân số, nhiều vấn đề thách thức đã nảy sinh. Nhiều nhà kinh tế đã bàn đến mối quan hệ giữa dân số với phát triển kinh tế - xã hội, sử dụng tài nguyên và môi trường trong các học thuyết về dân số. Học thuyết ...

Cùng với quá trình gia tăng dân số, nhiều vấn đề thách thức đã nảy sinh. Nhiều nhà kinh tế đã bàn đến mối quan hệ giữa dân số với phát triển kinh tế - xã hội, sử dụng tài nguyên và môi trường trong các học thuyết về dân số.

Học thuyết Malthus

Nội dung cơ bản của học thuyết của Thomas R. Malthus được trình bày trong cuốn sách "Những hiểu biết về quy luật dân số và tác động của nó đến nâng cao đời sống xã hội" (1798). Theo Malthus, dân số thế giới cứ 25 năm lại tăng gấp đôi và tăng lên như vậy từ thời kỳ này sang thời kỳ khác, theo cấp số nhân: 1, 2, 4, 8, 16, 32, 64, 128, 256. Trong khi đó, dựa vào quy luật "độ màu mỡ của đất đai giảm dần" ông cho rằng của cải vật chất chỉ tăng theo cấp số cộng: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9…

Vì thế nếu một quốc gia có 50 triệu dân và hiện có đủ lương thực cho 50 triệu dân này, sau 25 năm nữa sẽ có 100 triệu dân và vẫn có thể đủ lương thực cho 100 triệu dân. Nhưng sau 50 năm nữa, dân số sẽ là 200 triệu người và sản xuất lương thực chỉ có thể tăng đủ cung cấp cho 150 triệu người mà thôi. Sau hai thế kỷ, dân số sẽ lớn hơn gần 30 lần khả năng cung cấp lương thực thực phẩm; sau ba thế kỷ, mối tương quan này là 315 lần và sau hai ngàn năm, sự chênh lệch này là vô cùng lớn, không thể tính được. Theo cách tính toán và lập luận của Malthus như vậy, nạn thừa nhân khẩu, đói nghèo, dịch bệnh và chiến tranh là các hậu quả tất yếu sẽ xảy ra. Mô hình của học thuyết Malthus rất đơn giản và phản ánh đặc điểm lịch sử của quy luật dân số, nhưng sự suy luận của ông chưa đúng với thực tế. Học thuyết này chưa tính đến khả năng phát triển của khoa học kỹ thuật và quan niệm về gia đình hiện đại. Malthus đã cho rằng dân số cứ tăng lên mãi theo khả năng sinh sản tự nhiên mà không quan tâm đến một thực tế là mức sinh chịu tác động mạnh mẽ của nền kinh tế đương thời, của những quan điểm xã hội và nhu cầu cá nhân của từng kiểu gia đình. Malthus đã cắt nghĩa không chính xác các hậu quả xã hội của biến động dân số và đề ra phương pháp giải quyết không đúng. Thực tế, các yếu tố kinh tế - xã hội hoàn toàn có khả năng tác động vào hiện tượng tái sản xuất dân số (mức sinh, mức chết) để tạo ra sự tăng dân số hợp lý.

Mặc dù học thuyết Malthus không được sự ủng hộ hồi thế kỷ 19, nhưng trong những năm gần đây người ta lại quan tâm trở lại học thuyết này do sự tăng trưởng dân số nhanh ở các nước đang phát triển, sự lãng phí tài nguyên thiên nhiên, xuống cấp môi trường và mối quan tâm đến nguồn cung cấp lương thực.

Học thuyết về quá độ dân số

Học thuyết quá độ dân số xem xét mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội với mức tăng dân số.

Thực tế ở các nước phát triển cho thấy các nước này đã trải qua các giai đoạn diễn biến dân số như sau:

Giai đoạn 1: Thời kỳ trước cách mạng công nghiệp. Trong thời kỳ này tỷ suất sinh và tỷ suất chết của dân số đều khá cao (khoảng 50 phần nghìn) với mức sinh cao hơn chút ít so với mức chết, vì vậy dân số tăng rất chậm, thậm chí ổn định.

Giai đoạn 2: Thời kỳ cách mạng công nghiệp. Cùng với những tiến bộ trong công nghiệp, mức sống vật chất, tinh thần, chăm sóc sức khoẻ ban đầu và phương pháp y tế cộng đồng đã được nâng cao, nhờ đó tỷ lệ tử vong giảm rõ rệt, tuổi thọ trung bình tăng dần từ 40 lên 60 tuổi. Trong khi đó, tỷ lệ sinh lại không thay đổi đáng kể so với thời kỳ trước. Kết quả là dân số trong giai đoạn này tăng lên một cách nhanh chóng và đôi khi được gọi là "bùng nổ dân số".

Giai đoạn 3: Tác động của công nghiệp hoá tới các điều kiện kinh tế - xã hội dẫn đến những thay đổi làm tăng tuổi thọ trung bình của con người đồng thời lại làm cho mức sinh giảm dần. Đến cuối giai đoạn này, mức sinh và mức chết đều thấp và cân bằng ở mức khoảng 10 phần nghìn, dân số ổn định. Nguyên nhân chủ yếu là lúc này đời sống cao, chăm sóc y tế tốt, phụ nữ tham gia lao động sản xuất và các công tác xã hội khác nên số chị em lấy chồng muộn chiếm tỷ lệ cao; bản thân các gia đình cũng có ý thức sinh ít con để bố mẹ ít phải đầu tư thời gian và tăng dần đầu tư vật chất, tinh thần cho con (chuyển từ nhu cầu "số lượng" sang "chất lượng" đối với con cái)

Như vậy dân số các nước phát triển đã đi từ trạng thái cân bằng lãng phí (sinh nhiều, chết nhiều) sang trạng thái cân bằng tiết kiệm hơn (sinh ít, chết ít). Giữa hai trạng thái này là một thời kỳ kéo dài khoảng 150 năm ở Châu Âu. Thuyết quá độ dân số rất hữu ích trong nghiên cứu đối với các nước đang phát triển; mặc dù tuân theo sơ đồ tổng quát của quá độ dân số nhưng thực tế cho thấy biến đổi mức sinh và mức chết ở các nước nghèo diễn ra nhanh hơn, quá độ dân số rút ngắn lại, động lực và các hậu quả của quá độ dân số cũng có nhiều điểm khác với quá độ dân số ở Châu Âu. Câu hỏi đặt ra là liệu các quốc gia nghèo có tự động chuyển đổi sang giai đoạn 3 khi mà mức sống của các quốc gia này tăng lên và liệu quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá có phải là giải pháp khả thi cho vấn đề dân số không đòi hỏi những nghiên cứu sâu hơn về nguyên nhân của những thay đổi trong thời kỳ này.

Học thuyết kinh tế vi mô về mức sinh

Trong các phân tích mức sinh dựa vào lý thuyết kinh tế vi mô, trẻ em được nhìn nhận như những hàng hoá mang lại độ thoả dụng cho người tiêu dùng trong một thời gian dài. Theo lý thuyết hành vi người tiêu dùng, các cá nhân (trong trường hợp này là các ông bố, bà mẹ) với mức thu nhập nhất định sẽ cố gắng tối đa hoá mức thoả dụng của mình thông qua việc lựa chọn tiêu dùng các hàng hoá hàng ngày, các hình thức dịch vụ, nghỉ ngơi, dụ lịch… và lựa chọn việc cần sinh bao nhiêu con để có thể bảo đảm điều kiện thu nhập, lao động cũng như các nhu cầu học hành, chăm sóc sức khỏe, chăm lo đời sống tinh thần cho con cái. Sự lựa chọn của họ chịu ảnh hưởng của thu nhập và giá cả của các loại hàng hoá. Giá cả của con cái chính là các chi phí kinh tế cho trẻ em, bao gồm chi phí tài chính (thức ăn, quần áo, nhà ở, học hành, thuốc men…) và chi phí cơ hội (chi phí hay thu nhập mà cha mẹ mất đi như nghỉ việc hoặc từ bỏ cơ hội tham gia các hoạt động xã hội khác để nuôi con…).

Ở các nước phát triển, chi phí kinh tế cho trẻ em khá cao; đặc biệt, sự gia tăng mức độ tham gia của phụ nữ vào lao động và tiền lương cao hơn trên thị trường đã làm tăng thêm chi phí cơ hội của trẻ em (

Ở Mỹ, tổng chi phí kinh tế cho đứa con thứ nhất, đến 18 tuổi của một gia đình có mức sống trung bình ước tính khoảng 100.000 đô la Mỹ (1977) còn ở Auxtralia, chi phí cơ hội của một bà mẹ có 2 con là 400.000 đô la Úc (1986).
). Mặt khác, khi thu nhập tăng, các ông bố bà mẹ muốn con cái họ được chăm sóc, học hành tốt hơn, tức là họ thích mặt "chất lượng" hơn là "số lượng".

Sự lựa chọn số con mong muốn, mặt khác, còn phụ thuộc vào những lợi ích kinh tế mà cha mẹ hy vọng nhận được từ con cái trong tương lai. Trong xã hội phát triển, con cái ít có thời gian để chăm sóc và trợ giúp bố mẹ hơn, đồng thời các khoản lương hưu và trợ cấp xã hội được đảm bảo khiến cho cha mẹ già không bị lệ thuộc vào sự phụng dưỡng của con cái nữa. Như vậy, với các nước phát triển, trẻ em không phải là một lĩnh vực đầu tư tốt vì chi phí thì cao mà lợi ích kinh tế lại thấp.

Ngược lại, ở các nước đang phát triển, chi phí cho trẻ em thấp hơn nhiều, đặc biệt là ở vùng nông thôn và những nơi trẻ em không đi học, phụ nữ ít tham gia lao động xã hội. ở những nơi này, lợi ích từ con cái lại tương đối lớn vì ngay từ lúc còn ít tuổi, trẻ em đã có thể lao động để đóng góp vào thu nhập của gia đình; khi cha mẹ già, con cái có thể trợ giúp về kinh tế và chăm sóc lúc ốm đau. Do đó, khi kinh tế - xã hội chưa phát triển, thì mức sinh cao, hiện tượng "con đàn cháu đống" là điều dễ thấy.

Sự phân tích hành vi sinh đẻ được thể hiện trong mô hình cung - cầu cơ bản như sau:

MC1: Chi phí cận biên của con cái khi kinh tế - xã hội chưa phát triển

MC2: Chi phí cận biên của con cái khi kinh tế - xã hội phát triển

D1 = MB1: Cầu = Lợi ích cận biên của con cái khi kinh tế - xã hội chưa phát triển

D2 = MB2: Cầu = Lợi ích cận biên của con cái khi kinh tế - xã hội phát triển

Tóm lại, mối quan hệ giữa phát triển và hành vi sinh con là quan hệ hai chiều. Tỷ lệ sinh giảm xuống là do các yếu tố cơ bản:

- Phụ nữ có trình độ ngày một cao, có việc làm và thu nhập ổn định, có vị trí xã hội

- Thu nhập của các gia đình tăng, nhu cầu nuôi dưỡng và chăm sóc con cái cao hơn

  • Hệ thống chăm sóc sức khoẻ và dịch vụ xã hội tốt, có quan hệ xã hội tạo cuộc sống tinh thần thoải mái.

Tác động của gia tăng dân số đến việc sử dụng tài nguyên và chất lượng môi trường

Dân số có mối quan hệ trực tiếp đến môi trường thông qua việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên, phát triển kinh tế và phát thải vào môi trường. Tác động đến tài nguyên và môi trường (gọi tắt là tác động môi trường) của dân số đã được Paul Ehrlich và John Holdren đề cập năm 1971 dưới dạng một đồng nhất thức như sau:

I = P x F (1)

Trong đó:

I: Tác động môi trường của dân số và các yếu tố liên quan đến dân số

P: Quy mô dân số

F: Mức độ tác động môi trường tính bình quân theo đầu người

Mức độ tác động môi trường bình quân đầu người lại là một hàm số được xác định bởi một loạt biến số.

F = f[P, c, t, g(t)] (2)

Trong đó:

c: mức tiêu dùng bình quân đầu người

t: tác động môi trường của công nghệ tính trên một đơn vị tài nguyên được sử dụng

g: lượng tài nguyên được sử dụng

Đồng nhất thức (1) cũng có thể được biểu diễn dưới một dạng khác là:

I = P x A x T (3)

trong đó:

A: Mức độ sử dụng tài nguyên bình quân đầu người

T: Tác động môi trường của việc sử dụng tài nguyên (hay là tác động của công nghệ)

Rõ ràng, tổng tác động của dân số đến môi trường phụ thuộc vào tổng số dân P và các biến số liên quan đến mức tác động bình quân đầu người. Mô hình này cho thấy không thể có sự tiếp tục gia tăng dân số mà lại không gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng đến hành tinh của chúng ta, bởi lẽ xu hướng tự nhiên của con người là luôn muốn được hưởng thụ nhiều hơn, tức là tiêu thụ bình quân đầu người sẽ tăng và vì thế tác động của công nghệ thông qua việc khai thác và chế biến tài nguyên thiên nhiên cũng không thể giảm đáng kể. Như Ehrlich đã phát biểu sau đó vào năm 1994:

“… Không thể có sự phát triển bền vững nếu không có những hạn chế đối với tốc độ gia tăng dân số…” Thậm chí ngay cả khi nuôi người đơn giản như sản xuất gà hàng loạt thì cũng vẫn cần một nguồn năng lượng và vật chất tối thiểu cho mỗi người (A) và định luật thứ hai của nhiệt động học cũng đã chỉ rõ mức giới hạn của hiệu suất sử dụng (T) đối với các nguồn năng lượng và vật chất đó. Các tác động tiêu cực của tình trạng gia tăng dân số hiện nay trên thế giới biểu hiện ở các khía cạnh:

- Sức ép lớn tới tài nguyên thiên nhiên và môi trường trái đất do khai thác quá mức các nguồn tài nguyên phục vụ cho các nhu cầu nhà ở, sản xuất lương thực, thực phẩm, sản xuất công nghiệp…

- Tạo ra các nguồn thải tập trung vượt quá khả năng tự phân huỷ của môi trường tự nhiên trong các khu vực đô thị, khu sản xuất nông nghiệp, công nghiệp.

- Sự chênh lệch ngày càng lớn gia tăng về tốc độ phát triển dân số giữa các nước công nghiệp hoá và các nước đang phát triển, dẫn đến tình trạng ô nhiễm do nghèo đói ở các nước đang phát triển và ô nhiễm do tiêu phí dư thừa ở các nước công nghiệp hoá. Sự chênh lệch ngày càng tăng giữa đô thị và nông thôn, giữa các nước phát triển và đang phát triển là một trong những nguyên nhân của sự di dân dưới mọi hình thức.

- Sự gia tăng dân số đô thị, hình thành các thành phố lớn - siêu đô thị gây ra tình trạng quá tải, làm cho môi trường nhiều khu vực đô thị có nguy cơ bị suy thoái nghiêm trọng.

Nguồn cung cấp nước sạch, nhà ở, cây xanh không đáp ứng kịp cho sự gia tăng dân số; ô nhiễm môi trường không khí, nước, chất thải rắn tăng lên; Các tệ nạn xã hội gia tăng và vấn đề quản lý xã hội trong đô thị ngày càng khó khăn.

Từ giữa thế kỷ 20 đến nay, dân số thế giới tăng nhanh, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Nếu năm 1930, dân số thế giới chỉ có 2 tỷ người thì đến nay đã đạt mức trên 6 tỷ người và có thể đạt 10 tỷ người vào năm 2050. Do dân số tăng nhanh, để duy trì sự sống và phát triển sản xuất, con người đã khai thác một cách không thương tiếc nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng đa dạng và trở thành thủ phạm của sự tàn phá và làm ô nhiễm môi trường, phá vỡ cân bằng sinh thái.

Theo tính toán của các nhà khoa học, nếu dân số tăng 1% thì thu nhập quốc dân phải tăng 3 - 4% để bảo đảm ổn định mức sống, mà nếu tăng 5% thu nhập quốc dân hàng năm thì trong vòng 10 - 15 năm lượng sử dụng tài nguyên thiên nhiên sẽ tăng gấp đôi. Trong vòng một thế kỷ qua, con người đã khai thác từ lòng đất 130 tỷ tấn khí đốt, tàn phá hàng loạt cánh rừng - những "lá phổi xanh của hành tinh"

Việc khai thác, chế biến các nguyên nhiên liệu thải ra nhiều khói, bụi, khí SO2, NOx… gây mưa axit hại mùa màng, gây ra các biến đổi môi trường và bệnh tật cho con người. Tổng lượng các chất gây ô nhiễm trong năm 1970 là 19 tỷ tấn thì đến nay đã tăng lên hơn 40 tỷ tấn. Tài nguyên rừng của thế giới cũng bị suy giảm nghiêm trọng do nhu cầu về gỗ, củi, các loại đặc sản, dược liệu… tăng lên, đồng thời nhiều diện tích rừng còn bị tàn phá để lấy đất trồng trọt và chăn thả gia súc; nạn cháy rừng cũng trở nên trầm trọng ở nhiều nơi trên thế giới. Suy giảm diện tích rừng lại dẫn đến những sức ép lớn đối với đất: xói mòn, rửa trôi, bạc màu, nhiễm mặn đất; hạn hán, lũ lụt cũng gia tăng; các loại động thực vật hoang dã mất nơi cư trú nên suy giảm cả về chủng loại và số lượng… Lượng nước thải do sinh hoạt và sản xuất nông, công nghiệp cũng gia tăng cùng với quá trình tăng dân số và gây ra hậu quả là gần 50% dân số thế giới không được đáp ứng các nhu cầu về nước sạch.

Mặc dù lập luận của Ehrlich chủ yếu tập trung vào sự cần thiết hạn chế mức tăng dân số, đồng nhất thức I = PAT cũng được sử dụng để giải thích cho sự cần thiết hạn chế tiêu dùng và tác động của công nghệ. Thực tế cho thấy các nước nghèo với tốc độ tăng dân số nhanh có thể gây ra ít ảnh hưởng xấu đến môi trường hơn so với các nước giàu có mức tiêu dùng cao hơn và công nghệ huỷ diệt hơn. Như vậy, một trong những giá trị cơ bản của mô hình I = PAT là nó đã chỉ rõ dân số không phải là yếu tố duy nhất sản sinh ra tác động môi trường; Sản xuất và tiêu dùng cũng là 2 yếu tố chẳng kém phần quan trọng. Điều này khiến ta nhớ lại trong cuốn Cứu lấy Trái đất của IUCN (1991) có viết:

"Trái đất có giới hạn của nó. Để sống trong sự giới hạn đó, cần thực hiện hai việc: chấm dứt việc gia tăng dân số và các nước giàu phải ổn định việc tiêu dùng tài nguyên của họ".

Nghèo đói và môi trường

Mặc dù các quốc gia khác nhau trên thế giới có những quan niệm rất khác nhau về chuẩn mực đói nghèo, nhưng có thể nói đói nghèo trước hết là thiếu thốn các nhu cầu cơ bản của con người như ăn, mặc, ở, học hành. Hiện tượng đói - nghèo của thế giới chủ yếu là do sự phân phối thiếu công bằng làm cho một số đông dân không đạt mức sống cần thiết tối thiểu, làm cho thể lực, trí lực của người lao động bị hạn chế, tính sáng tạo của người lao động không có đất để phát triển.

Đã có nhiều bằng chứng thuyết phục cho thấy những tác động tiêu cực đến môi trường có liên quan đến tăng trưởng dân số khi một bộ phận người dân phải đối mặt với nghèo đói.

Do phải đối mặt với sự sống còn trước mắt, những người nghèo vừa là nguyên nhân gây ra các vấn đề môi trường, vừa là nạn nhân của chính sự tàn phá môi trường ấy. Đó chính là một "vòng tròn luẩn quẩn" của nghèo đói. Do thiếu vốn, thiếu kiến thức và phương tiện sản xuất, người nghèo đã khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách bừa bãi, lãng phí, gây ra sự cạn kiệt tài nguyên, gây ô nhiễm và suy thoái môi trường, làm cho năng suất cây trồng và vật nuôi giảm, các điều kiện vệ sinh môi trường xấu đi. Điều này khiến cho con người ngày càng nghèo đói hơn và mắc nhiều bệnh tật hơn.

Chính những bộ phận dân cư nghèo nhất lại thường sống ở những vùng nhạy cảm nhất, dễ bị tổn thương nhất về môi trường. Trong những vùng như vậy, các vấn đề môi trường thường được pha trộn với những nỗ lực thoả mãn các nhu cầu thiết yếu của người nghèo như lương thực, thực phẩm, chất đốt, nhà ở, y tế và giáo dục.

Sự gia tăng về tốc độ và quy mô khai thác tài nguyên biển nói chung và hải sản nói riêng một cách quá mức cùng những phương tiện kỹ thuật nghèo nàn và phương thức đánh bắt lạc hậu, mang tính huỷ diệt như dùng mìn, thuốc nổ, lưới quét… đã huỷ hoại môi trường biển trên quy mô lớn. Tài nguyên biển, nguồn sống chủ yếu của dân nghèo ven bờ, ngày càng cạn kiệt khiến cho cuộc sống của họ càng khó khăn hơn, nghèo đói hơn.

Do yêu cầu thâm canh, tăng vụ nên khối lượng sử dụng ngày càng tăng thuốc trừ sâu và phân hoá học cũng làm tổn hại không nhỏ đến môi trường. Đất trồng lúa có lượng chất độc ngày càng tăng, làm chết cá - tôm - các động thực vật thuỷ sinh, nguồn sống quan trọng cung cấp protein, làm ảnh hưởng không nhỏ đến sức khoẻ con người. Do thiếu kiến thức, nhiều vùng lãnh thổ nơi cư trú của người nghèo, vẫn còn tồn tại một số thói quen, tập quán sinh hoạt mất vệ sinh, gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường như phóng uế bừa bãi, dùng phân tươi bón ruộng, vứt xả rác và xác động vật chết ra đường, ao hồ, sông suối; thả rông lợn, trâu, bò…

Thiếu các công trình vệ sinh bảo đảm, phần lớn dân nghèo phải phóng uế ngay trên các khu đất trồng hoặc sông, suối, hồ, ao… gây ô nhiễm nguồn nước, đất hoặc là sử dụng các nhà vệ sinh chung không bảo đảm yêu cầu vệ sinh.

Thiếu nước sạch, phải sử dụng nước ao, hồ, sông, suối hoặc các giếng nông không bảo đảm an toàn và vệ sinh là nguyên nhân gây ra và lan truyền các bệnh truyền nhiễm và nhiễm trùng như bệnh đường ruột, đau mắt, tiêu chảy, các dịch sốt…

Người nghèo ở nông thôn, do mức thu nhập rất thấp nên đã cố gắng tận dụng các nguồn chất đốt rẻ tiền và dễ kiếm như rơm rạ, lá cây, phân gia súc… v.v., còn người nghèo ở thành phố cũng dùng các loại chất đốt rẻ tiền như củi, than… Đây chính là những nguyên nhân của tình trạng "ô nhiễm trong nhà", gây ô nhiễm rất độc hại và ảnh hưởng rất tiêu cực đến sức khoẻ con người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em…

Tình trạng nghèo đói, lạc hậu, kém phát triển cũng là lý do khiến tỷ lệ gia tăng dân số ở các khu vực nghèo đói cao. Người nghèo thiếu hoặc không được tiếp cận tới các kiến thức, các biện pháp và dịch vụ kế hoạch hoá gia đình; Chi phí kinh tế cho con cái thấp so với lợi ích của con cái khiến người nghèo muốn có nhiều con hơn.

Nói một cách ngắn gọn, giữa nghèo đói và môi trường có mối quan hệ tác động chủ yếu bao gồm:

- Nghèo đói làm cho các cộng đồng nghèo vốn phụ thuộc vào các nguồn tài nguyên mỏng manh của địa phương trở nên dễ bị tổn thương do các biến động của tự nhiên và xã hội.

- Nghèo đói dẫn đến thiếu vốn đầu tư cho sản xuất, cho kết cấu hạ tầng, văn hoá, giáo dục và các dự án cải tạo môi trường.

- Nghèo đói làm gia tăng tốc độ khai thác tài nguyên theo hướng quá mức hay huỷ diệt.

- Nghèo đói là mảnh đất lý tưởng cho mô hình phát triển chỉ thị tập trung vào tăng trưởng kinh tế và xây dựng một xã hội tiêu thụ.

- Nghèo đói góp phần vào bùng nổ dân số…

Dân số - Phát triển và Môi trường ngày càng được nhìn nhận như là một thể hữu cơ trong chiến lược phát triển của mỗi quốc gia cũng như của toàn cầu. Mục tiêu có một cuộc sống tốt hơn, với mức sống, điều kiện học hành, chăm sóc sức khoẻ và cơ hội kinh tế cao hơn không chỉ được đặt ra cho các thế hệ hiện tại mà còn cho cả các thế hệ trong tương lai. Mục tiêu phát triển bền vững ấy cần được thực hiện thông qua sự kết hợp của các chính sách.

Chính sách nhằm đạt được tỷ lệ gia tăng dân số hợp lý.

Trước tình hình gia tăng dân số hiện nay, con người đang bị đe doạ bởi 3 nạn đói: đói ăn, đói học và đói việc làm. Dân số tăng nhanh làm cho khoảng cách chênh lệch giữa người giàu và người nghèo ngày càng lớn. Năm 1991, chỉ có 20% số người giàu nhất nhưng chiếm tới 85% thu nhập của toàn thế giới trong khi ngược lại, 20% số người nghèo nhất chỉ đạt được 1,4% tổng thu nhập của toàn thế giới. Hiện tượng nghèo đói khá phổ biến ở các nước đang phát triển cùng với tốc độ tăng dân số nhanh ở các nước này là nguyên nhân dẫn đến tốc độ khai thác tài nguyên thiên nhiên cao (nhất là các tài nguyên hệ nuôi dưỡng), làm cho tài nguyên bị cạn kiệt, suy thoái, giảm đa dạng sinh học.

Bên cạnh đó, các nước đang bước vào giai đoạn công nghiệp hoá sử dụng một khối lượng lớn tài nguyên để thoả mãn nhu cầu đời sống cho số dân đông lại phát thải vào môi trường một lượng chất thải lớn hơn bao giờ hết.

Hướng đi tới của thế kỷ 21 là phải giảm tỷ lệ tăng dân số để có thể thực hiện mối quan hệ: cứ tăng 1% dân số, cần tăng 3-4% thu nhập quốc dân nhằm bảo đảm ổn định và nâng cao mức sống của cộng đồng xã hội đồng thời bảo đảm sự phát triển không vượt quá giới hạn chịu đựng của các hệ sinh thái.

Tuy nhiên, tỷ lệ tăng dân số phù hợp cần được xác định cụ thể căn cứ vào khả năng phát triển lực lượng sản xuất, tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước, mỗi khu vực. Với những nước công nghiệp phát triển, trình độ lực lượng sản xuất cao, số lượng máy móc sử dụng trong sản xuất chiếm tỷ lệ lớn và ngày một hiện đại, năng suất lao động cao nên nhu cầu lao động hàng năm tăng không đáng kể, thậm chí ổn định. Với những nước này, chỉ cần tăng dân số 0,3 - 0,5% là đủ thoả mãn nguồn lao động.

Nhưng ở các nước đang phát triển, sử dụng lao động của con người (bao gồm cả lao động chân tay) chiếm tỷ lệ lớn, năng suất lao động thấp nên nhu cầu về số lượng lao động cao. Ngoài ra, trong thời gian tới, nhu cầu phát triển các ngành dịch vụ, du lịch, y tế, giáo dục, giao thông… sẽ đòi hỏi gia tăng lực lượng lao động cả về số lượng và chất lượng. Trong một vài thập kỷ tới, các nước đang phát triển cần tỷ lệ tăng dân số ở mức trên dưới 1%, thậm chí 1,5%/năm. Tuy nhiên, do tỷ lệ gia tăng dân số ở các nước đang phát triển hiện nay nói chung khá cao nên việc đạt được mục tiêu tăng dân số ở mức 1 - 1,5% đòi hỏi các nước này phải có chiến lược và chính sách thích hợp để kiểm soát dân số.

Có thể sử dụng chính sách có các biện pháp tác động trực tiếp tới biến số dân số, ví dụ như chính sách sinh 1 con ở Trung Quốc, cung cấp các biện pháp và dịch vụ đầy đủ cho kế hoạch hoá gia đình…

Hướng tiếp cận kinh tế trong việc kiểm soát dân số là các biện pháp chính sách nhằm gián tiếp làm giảm mức sinh, giảm quy mô gia đình. Nó được thực hiện thông qua việc xác lập các nhân tố có thể tác động đến quy mô của gia đình, để tiến hành thay đổi các nhân tố đó. Để có thể sử dụng hướng tiếp cận này, chúng ta phải biết được quyết định về mức sinh bị tác động như thế nào bởi hoàn cảnh kinh tế của các gia đình. Phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao mức sống và các cơ hội học hành, việc làm, chăm sóc sức khoẻ của con người, đặc biệt là tạo điều kiện phát triển cho phụ nữ… được coi là những biện pháp chính sách dân số gián tiếp.

Chính sách phân bố lại dân cư và sử dụng hợp lý lao động

Vì những lý do lịch sử, tình hình chung của nhiều quốc gia trên thế giới là dân cư phân bố không đều, không hợp lý. Phần lớn dân cư thế giới tập trung ở một số vùng đồng bằng, ven biển. Các đồng bằng lớn trên thế giới như Hoàng Hà, Dương Tử, Cửu Long, Hồng Hà, Nile… đều là những vùng tập trung đông dân cư của các nước.

Ngày nay, nhiều nước trên thế giới đã sang giai đoạn công nghiệp hoá nên việc hình thành các khu công nghiệp, các vùng kinh tế mới để khai thác tài nguyên khoáng sản, nhiên liệu và các tài nguyên khác ngoài đất và nước đã trở thành nhu cầu mới của nhiều nước. Điều đó đòi hỏi phải có chính sách di dân để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.

Để tạo được sức hút đối với việc điều dân từ vùng đông dân đến vùng ít dân, cần phải tổ chức tốt sản xuất và có chính sách giữ dân ở những vùng tiếp nhận nhập cư. Khả năng giữ dân tốt nhất là tổ chức xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đầy đủ, thuận lợi, đáp ứng tốt nhu cầu sản xuất và đời sống cho người dân, làm cho người nhập cư sớm thấy hoà mình vào cộng đồng mới. Việc di dân cũng cần đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ giữa số dân tăng cơ học và khả năng về tài nguyên, môi trường của vùng tiếp nhận, cần chuẩn bị "sức chứa" cho vùng tiếp nhận nhập cư một cách toàn diện.

Do đó cần có một hệ thống chính sách phù hợp như quy định về sử dụng tài nguyên, về xây dựng nhà ở, hình thành khu dân cư mới, xây dựng hoặc bổ xung trường học, bệnh viện, các hệ thống dịch vụ khác như điện, nước, ngân hàng, giao thông vận tải và thông tin.

Hiện tượng di dân từ nông thôn ra thành thị cũng cần được quan tâm đúng mức và có những chính sách để làm giảm áp lực cho quá trình đô thị hoá. Hệ thống đô thị của các nước đang phát triển hiện nay đều bị sức ép của 3 vấn đề cơ bản là nhà ở, giao thông và thu gom, xử lý chất thải. ở một số nước, để giải quyết sức ép này, người ta đã xây dựng các thành phố vệ tinh, các khu công nghiệp ngoại đô, mở rộng đô thị, dùng chính sách dãn dân ở vùng trung tâm đô thị và hạn chế nhập cư vào thành phố với những tiêu chuẩn cao.

Đi đôi với chính sách phân bố lại dân cư cần có một hệ thống chính sách để sử dụng nguồn lao động một cách hợp lý, đạt hiệu quả cao như các chính sách về giáo dục, đào tạo, ưu đãi ngành nghề, phát triển việc làm…

Lồng ghép các yếu tố dân số vào chiến lược và kế hoạch phát triển của quốc gia cũng như của các địa phương.

Lồng ghép các yếu tố dân số vào chiến lược và kế hoạch phát triển là một giải pháp rất quan trọng nhằm đạt được mục tiêu giảm mức sinh, giảm quy mô gia đình, nâng cao chất lượng dân số; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững.

Thực tế của nhiều nước trên thế giới và của Việt Nam đã cho thấy, giải quyết vấn đề dân số sẽ gặp nhiều khó khăn và tốn kém cả về thời gian, công sức nếu không được liên kết với các vấn đề môi trường và phát triển, giảm nghèo đói và tạo cơ hội cho phát triển, nâng cao trình độ dân trí, tăng cường vai trò gia đình và thực hiện bình đẳng giới trong giáo dục và đào tạo, dạy nghề và phân công lao động, cải thiện vị thế của phụ nữ trong gia đình và xã hội, đầu tư hợp lý cho các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa…

Việc thực hiện các chương trình lồng ghép được coi là cách thức tốt nhất để đạt được các hiệu quả tổng hợp về hạn chế tỷ lệ gia tăng dân số, làm cho vấn đề dân số hài hoà với phát triển bền vững trên cơ sở bảo vệ môi trường.

TÓM TẮT CHƯƠNG IV.

Giữa tài nguyên, dân số, Kinh tế và môi trường có mối quan hệ với nhau. Sự gia tăng dân số nhanh là sức ép đối với nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Ngược lại không có đủ một lượng dân số nhất định sẽ gây ra những khó khăn cho phát triển Kinh tế. Vấn đề thách thức đặt ra là làm thế nào để giải quyết mối quan hệ hài hoà giữa các yếu tố nói trên. Để lý giải những vấn đề cơ bản đó trong nội dung của chương IV chủ yếu tập trung vào ba vấn đề.

Thứ nhất bàn về vấn đề khan hiếm nguồn tài nguyên không có khả năng tái sinh, từ cơ sở lý luận, bằng những sơ đồ và mô hình khái quát hoá, người đọc có thể hiểu được tại sao lại xảy ra khan hiếm nguồn tài nguyên không có khả năng tái sinh. Những chỉ tiêu nào được coi là khan hiếm, trên cơ sở đó xây dựng nguyên tắc kinh tế cơ bản gì cho khai thác các nguồn tài nguyên không có khả năng tái sinh.

Thứ hai bàn về sự khan hiếm đối với nguồn tài nguyên có khả năng tái sinh. Khác với nguồn tài nguyên không có khả năng tái sinh, nguồn tài nguyên này phương thức tiếp cận Kinh tế và sinh thái được phối hợp chặt chẽ với nhau, sự gắn kết đó được thể hiện thông qua vấn đề tỷ lệ chiết khấu, nguyên tắc xác định như sau:

Tỷ lệ chiết khấu = Tốc độ tăng trưởng sinh học + Tốc độ tăng giá trị vốn.

Thứ ba khái quát hoá chính sách dân số, những vấn đề lý thuyết và thực tiễn, đây là những nội dung mới được đưa vào lồng ghép nghiên cứu trong Kinh tế môi trường không chỉ ở Việt nam mà cả trên thế giới. Trong nội dung này được tập trung bàn luận chủ yếu ba vấn đề lớn: i). Các lý thuyết cơ bản về dân số, bao gồm 3 học thuyết cơ bản là học thuyết Malthus, học thuyết quá độ dân số và học thuyết kinh tế vi mô về mức sinh; ii). Phát triển kinh tế, dân số và môi trường, trong nội dung này tập trung giải quyết 2 vấn đề cơ bản là xem xét mô hình tác động tới môi trường của sự gia tăng dân số và vấn đề liên quan giữa nhèo đói và môi trường; iii). Các chính sách nhằm bảo đảm cân đối giữa gia tăng dân số, phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Trong nội dung này bàn về 3 nhóm chính sách cơ bản gồm có Chính sách nhằm đạt được tỷ lệ gia tăng dân số hợp lý; Chính sách phân bố lại dân cư và sử dụng hợp lý lao động và chính sách Lồng ghép các yếu tố dân số vào chiến lược và kế hoạch phát triển của quốc gia cũng như của các địa phương.

CÂU HỎI ÔN TẬP.

1. Phân tích biểu đồ dạng hộp về tài nguyên và trữ lượng của Mckelvey đối với nguồn tài nguyên không có khả năng tái sinh.

2. Đối với nguồn tài nguyên không có khả năng tái sinh, trong đo lường kinh tế những chỉ tiêu khan hiếm nào thường được sử dụng?

3.Trình bày nguyên tắc kinh tế đối với việc khai thác nguồn tài nguyên không tái sinh.

4.Phân tích bằng đồ thị mô hình khai thác và khả năng cạn kiệt đối với nguồn tài nguyên có khả năng tái sinh.

5. Tình bày mối quan hệ giữa chiết khấu, tốc độ tăng trưởng và tốc độ tăng giá trị vốn được sử dụng trong phân tích kinh tế để lựa chọn khai thác tài nguyên có khả năng tái sinh theo thời gian. Lấy ví dụ để minh hoạ.

6. Trình bày ba học thuyết cơ bản về dân số.

7.Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, dân số và môi trường

8.Phân tích mối quan hệ giữa nghèo đói và môi trường. Lấy ví dụ thực tiễn để chứng minh.

9.Trình bày những chính sách cơ bản cần thực hiện nhằm đảm bảo cân đối giữa gia tăng dân số, phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường.

0