Khái quát tiến trình đổi mới (từ 1986 đến nay)
Khái quát tiến trình đổi mới (từ 1986 đến nay) Đại hội nhận định, 5 năm qua cách mạng nước ta diễn ra trong bối cảnh quốc tế và trong nước có những thuận lợi nhưng có nhiều khó khăn phức tạp. Nhân dân ta khắc phục khó khăn đã đạt được những thành tựu quan trọng nhưng tình hình kinh tế - xã hội ...
Khái quát tiến trình đổi mới (từ 1986 đến nay)
Đại hội nhận định, 5 năm qua cách mạng nước ta diễn ra trong bối cảnh quốc tế và trong nước có những thuận lợi nhưng có nhiều khó khăn phức tạp. Nhân dân ta khắc phục khó khăn đã đạt được những thành tựu quan trọng nhưng tình hình kinh tế - xã hội đang có những khó khăn gay gắt.
a) Thời kỳ từ năm 1986 đến 1996
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986):
Đại hội đã khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện đất nước và bầu ông Nguyễn Văn Linh là Tổng Bí thư Đảng.
Đại hội nhận định, 5 năm qua cách mạng nước ta diễn ra trong bối cảnh quốc tế và trong nước có những thuận lợi nhưng có nhiều khó khăn phức tạp. Nhân dân ta khắc phục khó khăn đã đạt được những thành tựu quan trọng nhưng tình hình kinh tế - xã hội đang có những khó khăn gay gắt.
Nguyên nhân chủ quan của tình hình khủng hoảng là do những sai lầm, khuyết điểm về chủ trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và về tổ chức thực hiện. Khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm ấy, đặc biệt là những sai lầm về chính sách kinh tế, là bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội. Những sai lầm và khuyết điểm trong lĩnh vực kinh tế, xã hội bắt nguồn từ những khuyết điểm trong công tác tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, Đại hội đã tổng kết bốn bài học kinh nghiệm là: Một là, trong mọi hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”. Hai là, Đảng luôn phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Ba là, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Bốn là, chăm lo công tác xây dựng Đảng ngang tầm với yêu cầu và nhiệm vụ mới.
Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo.
Đề cao cảnh giác, tăng cường khả năng quốc phòng và an ninh của đất nước, quyết đánh thắng kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, bảo đảm chủ động trong mọi tình huống để bảo vệ Tổ quốc.
Phương hướng nhiệm vụ cụ thể: Xây dựng và tổ chức thực hiện ba chương trình về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu... Thực hiện nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa một cách thường xuyên với những hình thức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất... Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế; giải quyết cho được những vấn đề cấp bách về phân phối, lưu thông. Xây dựng và tổ chức thực hiện một cách thiết thực và có hiệu quả các chính sách xã hội. Tăng cường khả năng quốc phòng và an ninh của đất nước; tăng cường hoạt động trên lĩnh vực đối ngoại. Phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nâng cao hiệu lực chỉ đạo và điều hành bộ máy của Đảng và Nhà nước.
Xây dựng Đảng thật sự ngang tầm một đảng cầm quyền có trọng trách lãnh đạo toàn dân thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược. Tiến hành trong toàn Đảng và toàn xã hội cuộc vận động làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức đảng; làm trong sạch và nâng cao hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước; đẩy lùi và xoá bỏ các hiện tượng tiêu cực, làm lành mạnh các quan hệ xã hội và thực hiện công bằng xã hội.
Đại hội VI là "Đại hội kế thừa và quyết tâm đổi mới, đoàn kết tiến lên của Đảng ”, mở đầu công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ của cách mạng nước ta, đánh dấu sự trưởng thành về lý luận và thực tiễn của Đảng.
- Đại hội đại biếu toàn quốc lần thứ VII (6/1991):
Đại hội họp trong bối cảnh công cuộc cải tổ ở Liên Xô và Đông Âu rơi vào khủng hoảng và sụp đổ, tác động mạnh mẽ đối với cách mạng Việt Nam.
Đại hội thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991), Chiến lược, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000; phương hướng phát triển kinh tế xã hội 5 năm (1991 - 1995), bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng và bầu ông Đỗ Mười là Tổng Bí thư.
+ Nội dung cơ bản Cương lĩnh năm 1991:
Tổng kết cách mạng Việt Nam và chỉ ra 5 bài học của kinh nghiệm: Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng là xã hội gồm 6 đặc trưng cơ bản:
Do nhân dân lao động làm chủ; có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Bảy phương hướng cơ bản xây dựng đất nước:
(1) Xây dựng Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; (2) Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện; (3) Phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao; (4) Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá; (5) Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất; (6) Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam; (7) Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
+ Chiến lược, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 xác định:
Mục tiêu tổng quát là đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng, ổn định tình hình kinh tế - xã hội, phấn đấu vượt qua tình trạng nghèo và kém phát triển.
Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, áp dụng cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá. Đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ, coi đó là quốc sách hàng đầu, Đổi mới hệ thống chính trị, không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng với hệ thống chính trị. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn với tập trung, kỷ cương và kỷ luật. Đổi mới và chỉnh đốn Đảng, xây dựng Đảng thật sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Đại hội VII là Đại hội của trí tuệ - đổi mới, dân chủ - kỷ cương - đoàn kết, đánh dấu bước trưởng thành về nhận thức và tư duy sáng tạo của Đảng.
- Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng (1/1994):
Sau khi Liên Xô sụp đổ (12/1991), các loại kẻ thù quyết liệt chống phá, âm mưu làm sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Lần đầu tiên Đảng ta tổ chức Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ. Điểm mới của Hội nghị là chỉ rõ cơ hội lớn và thách thức lớn cùa cách mạng nước ta.
Những cơ hội lớn là Đảng ta có đường lối đúng đắn, đoàn kết nhất trí, nhân dân ta cần cù và thông minh, giàu lòng yêu nước, có bản lĩnh và ý chí cách mạng kiên cường, tin tưởng vào Đảng, lực lượng vũ trang tuyệt đối trung thành với cách mạng, những thành tựu của công cuộc đổi mới đang tạo ra thế và lực mới, sự phát triển của cách mạng khoa học - kỹ thuật, xu thế mở rộng quan hệ hợp tác phát triển trên thế giới và trong khu vực.
Những thách thức lớn là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa nếu không khắc phục được những lệch lạc trong quá trình thực hiện; nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch. Các nguy cơ đó liên quan mật thiết với nhau, tác động lẫn nhau. Quyết tâm của Đảng là nắm vững thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới.
b)Thời kỳ từ 1996 đến nay
- Đại hội đại biếu toàn quốc lần thứ VIII (6/1996):
Đại hội đã thông qua đường lối phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996 - 2000; đường lối xây dựng Đảng, sửa đổi Điều lệ Đảng và tiếp tục bầu Đỗ Mười là Tổng Bí thư Đảng. Đại hội khẳng định:
Sau 10 năm đổi mới, đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội nhưng một số mặt còn chưa vững chắc. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hoá đã cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Căn cứ vào Cương lĩnh của Đảng, Đại hội khẳng định tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng đất nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
Đại hội đã vạch ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 1996 - 2000, nêu nhiệm vụ tổng quát, những tư tưởng chỉ đạo, các chương trình và lĩnh vực phát triển.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là "quốc sách hàng đầu". Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đả bản sắc dân tộc là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Tăng tưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xoá đói giảm nghèo.
Mở rộng đoàn kết toàn dân tộc dù sống trong nước hay đang định cư ở nước ngoài, lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, tiến lên dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh làm điểm tương đồng, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung, cùng nhau xoá bỏ định kiến, mặc cảm, hướng tới tương lai, xây dựng tinh thần đại đoàn kết, cởi mở, tin cậy lẫn nhau.
Tăng cường quốc phòng và an ninh; tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, chính sách rộng mở, đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng.
Tiếp tục đổi mới, chỉnh đốn Đảng, khắc phục các biểu hiện tiêu cực và yếu kém. Xây dựng Đảng ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ mới là một vấn đề có ý nghĩa quyết định thành công của cách mạng trên con đường đổi mới.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đánh dấu bước ngoặt của Đảng "Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh’’.
Tháng 12/1997, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 4, khoá VIII bầu ông Lê Khả Phiêu là Tổng Bí thư Đảng.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (4/2001):
Đại hội họp trong bối cảnh đất nước qua 15 năm đổi mới. Nhân loại bước vào năm đầu của thế kỷ XXI, cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức và xu thế toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ.
Đại hội thông đã tổng kết thế kỷ XX, thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010. đường lối phát triển kinh tế - xã hội 2001-2005; bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng, bầu ông Nông Đức Mạnh là Tổng Bí thư Đảng.
Báo cáo chính trị của Đại hội đã tổng kêt Việt Nam trong thế kỷ XX và triển vọng trong thế kỷ XXI; đánh giá tình hình đất nước 5 năm qua và những bài học chủ yếu của 15 năm đổi mới; làm rõ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; đường lối và chính sách phát triển kinh tế - xã hội; phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, xây dựng nên văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; tăng cường quốc phòng và an ninh; mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân; đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế; xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
+ Nội dung cơ bản Báo cáo chính trị tại Đại hội:
Tổng kết thế kỷ XX ghi đậm trong lịch sử loài người những dấu ấn sâu sắc: khoa học và công nghệ tiến nhanh chưa từng thấy; kinh tế phát triển mạnh mẽ xen lẫn những cuộc khủng hoảng lớn của chủ nghĩa tư bản; diễn ra hai cuộc chiến tranh thế giới đẫm máu cùng hàng trăm cuộc xung đột vũ trang; là thế kỷ chứng kiến phong trào cách mạng sâu rộng trên phạm vi toàn thế giới, dù vào thập niên cuối, chủ nghĩa xã hội hiện thực lâm vào thoái trào.
Đổi với nước ta, thế kỷ XX có những biến đổi to lớn với những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại. Từ một nước thuộc địa nửa phong kiên, nước ta đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Tuy nhiên, cách mạng nước ta đứng trước cơ hội lớn và thách thức lớn. Từ thực tiễn lịch sử cách mạng, Đại hội nêu ra bốn bài học chủ yếu: Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Hai là, đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo. Ba là, đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Bốn là, đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyểt định thành công của sự nghiệp đổi mới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quà của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Đó là tư tường về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giài phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân...
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta.
Con đường đi lên của Việt Nam là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu về khoa học - công nghệ mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa.
Trong thời kỳ quá độ có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau. Mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài vì mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa,khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển; thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực; làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh công nông và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế của toàn xã hội.
Mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 là tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm mục tiêu tổng quát đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân. Tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2000 - 2005 là tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mở rộng kinh tế đối ngoại. Tạo nhiều việc làm, cơ bản xoá đói, giảm số hộ nghèo; ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia.
Đại hội IX là Đại hội phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (4/2006):
Đại hội họp trong xu thế hoà bình, hợp tác, toàn cầu hoá trên thế giới mở rộng; khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức phát triển có những đột phá. Công cuộc đổi mới ở nước ta 20 năm qua đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Đại hội X đề ra đường lối phát triển kinh tế - xã hội (2006 - 2010), quyết tâm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đại hội bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng và bầu ông Nông Đức Mạnh là Tổng Bí thư Đảng.
Nội dung chủ yếu của Báo cáo chính trị:
Tổng kết 20 năm đổi mới, nêu 5 bài học lớn: Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Ba là, đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới. Bốn là, phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Năm là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đối mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng gồm 8 đặc trưng: Một là, dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; Hai là, do nhân dân làm chủ; Ba là, có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; Bốn là, có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Năm là, con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; Sáu là, các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; Bảy là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; Tám là, có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta là thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bàng, dân chủ, văn minh". Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Có thể rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển.
Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Nhiệm vụ quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân là bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hoá và an ninh xã hội.
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam là bạn, đổi tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế.
Đoàn kết đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu và động lực của công cuộc đổi mới. Nhà nước đại diện quyền làm chủ của nhân dân, tổ chức thực hiện đuờng lối chính trị của Đảng.
Đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Đảng cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân không giới hạn về quy mô, phạm vi nhưng phải chấp hành Điều lệ Đảng và đúng pháp luật.
Với chủ đề “Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”, Đại hội X thể hiện quyết tâm đổi mới toàn diện và mạnh mẽ nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (1/2011):
Đại hội họp khi nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển; thủ đô Hà Nội vừa kỷ niệm 1000 năm tuổi. Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (2011 - 2020); đề ra đường lối phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2020; bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng; bầu ông Nguyễn Phú Trọng là Tổng Bí thư Đảng.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (bổ sung, phát triển năm 2011) đã tổng kết những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam và nêu 5 bài học kinh nghiệm của cách mạng nước ta: Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Ba là, không ngừng cung cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dán ta xây dựng là một xã hội gồm tám đặc trưng cơ bản: Một là, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; Hai là, do nhân dân làm chủ; Ba là, có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; Bốn là, có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Năm là, con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; Sáu là, các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; Bảy là, có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; Tám là, có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta:
Xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Từ nay đến giữa thế kỷ thứ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tám phương hướng cơ bản xây dựng đất nước:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Bày là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn:
Quan hệ giữa đổi mói, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa, giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ..
Mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (2011 - 2020) là phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau.
Quan điểm phát triển của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (2011 - 2020):
Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược. Đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển. Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ ngày càng cao, đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất và thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kiên trì xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Ba khâu đột phá của Chiến lược phát triển kinh tế — xã hội (2011-2020):
Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện đại.
Đại hội đại biểu lần thứ XI là Đại hội tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Từ Đại hội đại biếu toàn quốc lần thứ XI đến nay (8/2013):
Thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương (gọi tắt là Hội nghị Trung ương) đề ra kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015; Quy định thi hành Điều lệ Đảng và hướng dẫn thực hiện các quy định về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng; Quy định những điều đảng viên không được làm.
Hội nghị Trung ương 4 (1/2012) chủ trương giải quyết một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
Hội nghị Trung ương 5 (5/2012) chủ trương sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992; tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai; tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; một số vấn đề về chính sách xã hội thời kỳ 2012 - 2020; về tiền lương, bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công.
Hội nghị lần thứ 6 (10/2012) chủ trương tiếp tục sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước; đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai; đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo phát triển khoa học và công nghệ; quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh chủ chốt của Đảng và Nhà nước.
Hội nghị Trung ương 7 (5/2013) chủ trương tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở; tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận; dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992; chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường công tác quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.