I. Hà Nội - Thăng Long
Chúng ta bắt đầu với Hà Nội. Nơi đây năm 1010, vua Lý Thái Tổ chọn làm kinh đô để "mưu toan việc lớn, tính kế lâu dài cho con cháu về sau vì ở trung tâm đất nước được cái thế rồng cuộn hổ ngồi; vị trí ở giữa bốn phương đông, tây, nam, bắc; tiện hình thế núi sông sau trước. Ở đó địa thế rộng mà bằng ...
Chúng ta bắt đầu với Hà Nội. Nơi đây năm 1010, vua Lý Thái Tổ chọn làm kinh đô để "mưu toan việc lớn, tính kế lâu dài cho con cháu về sau vì ở trung tâm đất nước được cái thế rồng cuộn hổ ngồi; vị trí ở giữa bốn phương đông, tây, nam, bắc; tiện hình thế núi sông sau trước. Ở đó địa thế rộng mà bằng phẳng (...), thật là chỗ hội họp của bốn phương, là nơi đô thành bậc nhất của đế vương muôn đời" (chiếu dời đô).
Nơi đây sông Hồng uốn khúc, trước đó tách ra con sông Đáy rồi đến sông Đuống, sông Nhuệ, ngày xưa còn cả con sông Tô Lịch chảy ngang qua phố phường. Gần một nghìn năm đã qua, cái tên Thăng Long gắn liền với mọi biến cố của lịch sứ dân tộc, mỗi bước hưng vong của quốc gia. Người Việt Nam trở về Hà Nội, đến với Hà Nội, trước hết là để đi vào chiều sâu của lịch sử quốc gia dân tộc.
Thăng Long ba lần bị quân Nguyên đốt phá, rồi đến quân Chiêm của Chế Bồng Nga, quân Minh của Trương Phụ; thế kỷ XVIII kiêu binh tàn phá hoàng cung và phủ chúa, thế kỷ XIX Gia Long cho đốt phá nốt cung điện nhà Lê dời đô vào Huế, rồi Pháp lại lấy hoàng thành xưa làm nơi đóng quân. Sau khi kinh đô dời vào Huế, Bà Huyện Thanh Quan đã thốt lên:
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Năm 1812, trở lại với Thăng Long, Nguyễn Du than thở:
Thiên niên cự thất thành quan đạo
Nhất phiến tân thành một cố cung
(Những nơi có nhà lớn nghìn năm nay thành đường cái. Một thành mới đã thay thế cho cung điện xưa).
Ngày nay chúng ta thoát được cái buồn man mác của các thi sĩ xưa, ta nhìn lại lịch sử của dân tộc, của đất nước với con mắt của những người được giải phóng, được nhiều ngành khoa học, địa chất, địa lý, khảo cổ, dân tộc học, sử học giúp cho nhìn rõ hơn con đường tiến lên của giống nòi.
Mặc dù thành thị xưa bị tàn phá rất nhiều, Hà Nội ngày nay vẫn giữ được khá nhiều vết tích, đủ cho chúng ta có dịp ôn lại mấy nghìn năm cuộc sống của cha ông. (Xem quyển Hà Nội nghìn xưa xuất bản năm 1975 của hai tác giả Trần Quốc Vượng và Vũ Tuấn Sán).
Sông Nhị, núi Nùng
Một con sông lớn, một gò đất không có gì cao lắm. Nhưng là núi thiêng (nay ở trong thành, khu quân đội) có đền thờ thần Long đỗ (rốn Rồng), nơi giao lưu của trời đất và con người. Nơi trung tâm của làng Hà Nội cổ, bên bờ sông Cái. Một con sông ngang ngược, thường đổi dòng, để sót lại một chuỗi hồ lớn nhỏ. Hà Nội là thành phố của những mặt hồ, dấu vết của sông Hồng, Con đường Hoàng Hoa Thám bên bờ hồ Tây xưa là con đê, khi hồ còn là một khúc sông. Người xưa lấp bớt, năm 1620 đắp đường Cố Ngự (thường gọi trệch là Cổ Ngư, nay mở rộng thành đường Thanh Niên) thành hai hồ, hồ nhỏ là Trúc Bạch (Giặt Lụa).
500 héc ta mặt nước bao quanh là những làng Quảng Bá, Nghi Tàm, Nhật Tân, Thụy Khuê (Bưởi) bao lần được sử sách nhắc đến, một mặt hồ từ xưa đến nay mang bao nhiêu tên, gọi là truyền thuyết và sự tích này khác - Hồ Xác Cáo, hồ Sương Mù, hồ Trâu Vàng, nay nôm na là hồ Tây. Trung Tâm cũng là một mặt hồ, hồ Gươm, "nước xanh như pha mực, bên hồ ngọn Tháp Bút, viết thơ lên trời cao" (Trần Đăng Khoa) có cầu Thê Húc, cho nắng đậu ban mai, đến đây không thể không nhớ đến người anh hùng dân tộc Lê Lợi, và nhà văn Phương Đình Nguyễn Văn Siêu (vào thế kỷ XIX đã xây nên cảnh đền tháp).
Dạo quanh Hà Nội là như vậy, ngắm nhìn sự vật ngày nay không thể không nhớ lại chuyện xưa, vì đâu phải ngẫu nhiên mà có những tên phố như Tràng Thi, Giảng Võ, có những bến Chương Dương, chùa Quán Sứ. Đi dọc đường Phan Đình Phùng, có nghĩ rằng thời Lý - Trần đây là dòng sông Tô Lịch của câu ca dao xưa mới thật cảm hứng.
Nước sông Tô vừa trong vừa mát
Em ghé thuyền đỗ sát thuyền anh
Dừng chèo muốn tỏ tâm tình
Sông bao nhiêu nước thương mình bấy nhiêu
Thời ấy sông Tô còn thông với sông Hồng, ở phường Hà Khẩu nay là Hàng Buồm, phù sa và xây dựng của con người dần dần bịt cửa khẩu nhưng Hà Nội ngày nay đã bắt đầu khơi lại dòng sông Tô từ Láng đến sông Nhuệ để cho trai gái nay mai có thêm nơi hò hẹn.
Nhìn cảnh Hồ Gươm, phải nhớ đến thời "hồ thông với ngoài sông, hình thế rất là to rộng" (Tang thương ngẫu lục) thời mà hồ còn kéo dài qua các đường Tràng Tiền, Vọng Đức đến tận Lò Đúc, Hàng Chuối ngày nay, thời mà Hải Thượng Lãn Ông còn xuống thuyền ở đây đề trở về xứ Nghệ sau khi chữa bệnh cho chúa Trịnh, thời mà vua Lê còn đến đây để xét duyệt thủy binh.
Một con sông, nơi lở, nơi bồi, những con người kiên nhẫn đào đắp qua nghìn năm đã tạo nên cảnh vật Thăng Long Hà Nội, đắp núi già để lấy thế phong thủy, đập đê chống lũ lụt. Sử còn ghi năm 1108 đắp đê Cơ Xá, và cũng ghi nhiều lần lụt tràn vào Thăng Long, đi lại đường phố phải dùng thuyền. Người Hà Nội còn nhớ lụt năm 1971, ngồi trên mặt đê, cao hơn đáy sông 14m mà có thể rửa tay nước sông, mặt nước cao hơn trung tâm thành phố đến 7m. May mà năm ấy đê không vỡ mà cũng là năm Mỹ ngừng thả bom (năm 1972 ném bom trở lại).
Trong khung cảnh sông hồ ấy, là thành và thị thành của vua quan, thị là chợ, nơi hàng hóa từ khắp nơi đổ về (Kẻ Chợ) và phố phường của dân được chia thành ô, "phố giăng mắc cửi đường quanh bàn cờ". Có phố phường thủ công, phường buôn, cũng có phường trồng dâu nuôi tằm, chăm trồng rau quả, tất cả là kinh thành, được bao quanh bởi một lũy đất, vừa là thành vừa là đê, gọi là Đại La Thành, nay vẫn còn. Trên La Thành này trổ năm cửa ô: Cầu Giấy, Triều Đông (Hòe Nhai), Yên Phụ, Chợ Dừa, Đông Mác (nguyên là ông Mạc).
Từ thời Lý đã hình thành 61 phường, chỗ hợp lưu sông Nhị, nơi sông Tô là sầm uất nhất thu hút không những người buôn bán Việt Nam mà cả Hoa Kiều, tập hợp ở những phố Hàng Đào, Hàng Ngang. Theo sử sách, các chuyên gia của ta đã lần lượt tìm ra nguồn gốc của rất nhiều phố phường ngày nay vẫn còn; Hà Nội là thành phố độc nhất ở nước ta có một bề dày lịch sử như vậy.
Ngoài phố phường còn khu Thập Tam Trại, khu nông nghiệp của Thăng Long với tên từ thời Lý – Trần nay vẫn còn: Liễu Giai, Cống Vị, Thủ Lệ, Ngọc Hà, Hữu Tiệp, Kim Mã, Ngọc Khánh, Đại Yên... Từ khu ngoại thành dân Thăng Long ngày càng đông chuyển sang phía tây bên kia sông phát hoang. Ngọc phả đình Liễu Giai còn ghi đời Lý Thái Tông một người họ Hoàng ở Lệ Mật, chuyên bắt rắn, được phép đem dân làng mình đến Thăng Long lập ấp, ngày nay làng Lệ Mật, huyện Gia lâm vẫn giữ truyền thống bắt rắn, và mỗi năm sau, ngày hai mươi ba tháng ba âm lịch mở hội múa rắn giỗ Thánh.
Ngày nay đi giữa Hà Nội thăm các chùa chiền, Văn Miếu qua những phố như Lý Quốc Sư, dạo khu Ba Đình ta có thể hình dung Thăng Long thời Lý. Căn cứ vào một số di tích về sử cũ, ông Nguyễn Du Chi đã vẽ lại cung điện thời ấy như sau: Các cung điện lầu gác được xây thành cụm quây quần với nhau: lầu vua ngự bốn tầng, lầu Chuông, lầu Chính Đường nơi xem giờ, gác Long Đỗ nơi nghỉ ngơi dạo ngắm. Những cụm kiến trúc từ hoàng thành lan ra trên bờ sông cái, quanh hồ Tây, quanh các ao sen với đình với quán (tức đền theo đạo Lão) nên thơ, khiến cho sử cũ ngợi ca: "Chạm trổ trang sức khéo léo, công trình thổ mộc chưa từng có" (Đại Việt lược sử).
Nổi lên giữa những kiến trúc là các ngôi chùa, vua dân thời ấy lấy Phật giáo làm quốc đạo. Chùa Sùng Khánh có tháp Báo Thiên cao mười hai tầng, thuyền ngược sông Hồng từ Thanh Trì đã thấy đỉnh tháp, xây năm 1057. Chùa Diên Hựu tức chùa Một Cột xây năm 1049, bia xưa còn ghi: “Đào hồ thơm Linh Chiểu, giữa hồ vọt lên một cột đá đỉnh cột nở hoa sen nghìn cánh, trên bông sen đứng vững tòa điện màu xanh, trong điện đặt pho lượng vàng, quanh hồ là dãy hành lang lại đào ao Bích Trì mỗi bên đều bắc cầu vồng đi qua, đằng trước xây bảo tháp lưu ly”. Chùa Khai Quốc, nay là chùa Trấn Quốc còn xưa hơn, xây từ thời Lý Nam Đế (thế kỷ thứ VI), đến đời Lý càng hưng vượng, là trung tâm giáo lý nhà Phật, và là nơi Thái hậu Ỷ Lan mở tiệc chay đãi các vị thiền sư nổi tiếng, nghiên cứu về nguồn gốc Phật học ở nước ta. Sách Thiền uyển tập anh thời Trần, một trong những quyển hiếm hoi thoát khỏi sự hủy hoại của giặc Minh, ghi lại tường tận câu chuyện giữa Hoàng phi Ỷ Lan và các vị sư, nhờ đó nay ta mới biết gốc tích đạo Phật vào nước ta như thế nào.
Có thể nói vào cuối thế kỷ XI đầu thế kỷ XII là cả một "thời đại Ỷ Lan", riêng bà theo sử sách đã xây đến một trăm chùa, những chùa nổi tiếng trong và ngoài Thăng Long đều thuộc vào giai đoạn này: Chùa Phật Tích (Tiên Sơn - Hà Bắc), chùa Giạm (Quế Võ), tháp Chương Sơn (Ý Yên), chùa Bà Tấm mang tên Ỷ Lan... Bà còn nổi tiếng là năm 1069, vua Lý Thánh Tông thân chinh đánh giặc phương xa, bà thay vua trị vì giúp cho dân tình yên ổn, đề xuất nhiều chính sách giúp dân mở mang nông nghiệp. Nhân dân và sử sách càng nhớ đến bà, vì xuất thân là một cô gái nông thôn, tằm tơ rất giỏi. Nếu có dịp đoàn chèo tổng cục hậu cần diễn vở Ỷ Lan coi việc nước của nhà văn Tào Mạt, bạn nên tìm xem, đây là một trong những vở chèo hay, vừa giữ được chất chèo cổ truyền: vừa đồng hóa được một số yếu tố của nghệ thuật sân khấu hiện đại (xem quyển Bài ca giữ nước gồm ba vở kịch chèo của Tào Mạt).
Ngày nay xem chèo tuồng, chúng ta cũng có thể hình dung được quang cảnh sinh hoạt văn hóa và ăn chơi của Thăng Long thời Lý - Trần: xem hát, uống trà thơm, đánh cờ, hát ả đào, múa rối và sách Toàn thư ghi chép cả những canh bạc thâu đêm "có tiếng bạc đặt gần ba trăm quan, ba tiếng đặt đã gần nghìn quan”. Và sử cũng đã ghi lại chuyện vua Trần Anh Tông thường lén đi chơi đến gà gáy mới về hoàng cung, bị Thượng hoàng quở trách. Chắc Thăng Long “by night” khá vui nhộn nhà vua mới đi suốt đêm như vậy.
Thường xuyên có những ngày lễ hội, hội đình, hội chùa, hội quán, có tung còn, đánh phết, đá cầu, đua thuyền, xiếc, ca múa, vật, gọi chung là Bách hí; Có những đám rước Phật, những lễ vua du xuân hay duyệt thủy quân với hàng nghìn chiếc thuyền tới lui trên sông nước Đông Bộ Đầu... Theo văn bia tháp Sùng Thiện Diên Linh thì:
"Thuyền ngự trên dựng lầu cao vòi vọi, mái che cao ngất ghế vua ngồi, ở giữa treo gương sáng, hai bên thì gấm vóc rỡ ràng, phi tần thể nữ rộng chỗ đứng hầu, chứa chan ngọc châu trang sức. Sớm giữa dòng chiếu rạng tưởng như giao long há miệng đớp sóng, chiều dừng lại bên bờ, ngỡ rằng ngao rùa nhô lưng đội ngấn Hán".
Thăng Long cũng là nơi tập trung trí tuệ, các nhà vua thường đàm đạo với các vị thiền sư nổi tiếng: Viên Chiếu, Trí Không, Mãn Giác, Minh Không, Từ Đạo Hạnh, Diệu Nhân ni sư. Các phái thiền tông đua nhau phát triển, những phái Vô Ngôn Thông, Thảo Đường, Trúc Lâm... Cạnh đạo Phật, ngay thời Lý, đạo Nho cũng chiếm một vị trí quan trọng. Việc xây dựng Văn Miếu năm 1070, việc tổ chức thi cử, xây dựng Quốc Tử Giám, và Viện Quốc Học, để giảng giải các sách xưa, để nghe bình văn, chứng tỏ bước đường tiến lên của Nho giáo. Đến đời Trần, Nho giáo bắt đầu lấn át đạo Phật, năm 1247 vua Trần tổ chức các kỳ thi Thái học sinh và ban tặng đanh hiệu Tam khôi cho ba người đỗ đầu. Trong lịch sử xuất hiện nhiều tên tuổi những vị Trạng nguyên, trong đó có Mạc Đĩnh Chi đỗ năm 1304, được nhà vua cho xuất phát từ cửa Long Môn đi dạo phố ba ngày mới xem hết cảnh Thăng Long. Về sau khắc tên mấy vị Tiến sĩ lên bia đá.
Có văn, có võ, khu Giảng Võ (khu triển lãm ngày nay), một khu đang xây dựng nhiều nhà mới của Hà Nội, chính là nơi vua Trần năm 1253 thành lập Giảng Võ đường để quan tâm đến rèn luyện võ nghệ. Không riêng ở đây, trong Thăng Long còn nhiều nơi tập luyện khác, nhất là thời Trần, một triều đại rất thượng võ.
Và như Hà Nội ngày nay, Thăng Long cũng mang ít nhiều tính quốc tế. Có cửa hàng của người Hoa, người Chà Và, người Hồi Hột (Ouigour - Tân Cương), có những vị sư, thầy yoga từ Trung Quốc, Ấn Độ sang, có biểu diễn tuồng Tàu, điệu múa của người Hồ, có hàng nghìn người cư trú chính trị, quan quân nhà Tống chạy giặc Nguyên.
Quên sao được những năm 1258 - 1284 sứ giả Nguyên Mông nghênh ngang phóng ngựa giữa kinh thành, "Uốn lưỡi cú diều sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó bắt nạt Tể Phụ. Thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng". Hai mươi lăm năm nhẫn nhục, phải lấy “Nhạc Thái thường đãi yến ngụy sứ”, phải ra công chế tạo hòm gỗ khảm vàng, mâm sừng tê giác khảm bạc, bình lưu ly nắp vàng làm cống phẩm, cũng là hai mươi lăm năm chuẩn bị kỹ càng lực lượng chiến đấu, để đầu 1285 họp hội nghị Diên đồng giữa năm ấy “đoạt sáo Chương Dương Độ, cầm hồ Hàm Tử Quan” và kết thúc năm 1288 với chiến thắng Bạch Đằng chôn vùi vĩnh viễn mộng bành trướng của nhà Nguyên. Đến nay còn vang vọng lời khuyên của Trần Hưng Đạo với nhà vua sau chiến thắng: “Sửa lại thành trì không cần kíp, việc cần kíp của triều đình không thể chậm trễ là úy lạo nhân dân. Quân giặc mấy lần tràn sang quấy rối, từ rừng núi đến đồng ruộng đều bị tàn phá vậy mà nhân dân vẫn một lòng hướng về triều đình xuất lực, xuất tài mà đi lính đánh thuê, làm nơi sức mạnh cho triều đình đánh giặc. Nay việc làm trước hết là chú ý đến dân, tùy tình trạng nặng nhẹ mà cứu tế, nơi nào tàn phá quá nặng miễn tô thuế mấy năm, ý chí của dân là bức thành kiên cố nhất, đó là cái thành cần sửa chữa ngay, xin nhà vua xét kỹ".
Bảo vệ Tổ quốc, xây dựng lại đất nước sau chiến thắng đã trở thành truyền thống dân tộc. Sau này Lê Lợi trả lại gươm vàng cho Thần Rùa để cùng Nguyễn Trãi dựng nên kỷ cương cho một kỷ nguyên mới. Ngày nay thăm viếng gò Đống Đa, các di tích Ngọc Hồi, Hạ Hồi, không những ta ôn lại cuộc hành quân thần tốc của Nguyền Huệ năm 1789 đại phá hơn hai mươi vạn quân Thanh mà còn nhớ đến vua Quang Trung chưa cởi áo giáp đã ra Chiếu Khuyến Nông, cầu hiền, cho dịch sách Hán ra chữ Nôm, khuyến khích ngành nghề để cho Nguyễn Huy Lượng có thể tả cảnh Thăng Long phồn thịnh vào những năm đầu triều đại Tây Sơn:
"Lò Thạch Khối khói tuôn nghi ngút, ghềnh Nhật Chiêu sóng giật ì ồ. Rập rềnh cuối bãi Đuôi Nheo, thuyền thương khách hãy chen buồm bươm bướm. Thanh Lãnh đầu hồ Cổ Ngựa, tháp cao tăng còn hé cửa tò vò. Chày Yên Thái nện trong sương chểnh choảng. Lưới Nghi Tầm ngăn ngọn nước quanh co" (Phú Tây Hồ)
Nếu Thăng Long đã qua hơn chín trăm năm lịch sử thì Hà Nội ngày nay hồi sinh với Cách Mạng tháng Tám gần năm mươi tuổi; về xây đựng thì vẻn vẹn mười tám năm sau khi hòa bình lập lại. Năm mươi năm lịch sử dày đặc, tôi không nói nhiều vì còn in sâu trong trí óc mỗi người nơi Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập, cũng là nơi Bác yên nghỉ muôn đời, nơi ông Trần Phú, Tổng bí thư đầu tiên của Đảng thảo luận cương, ngay trong một căn phòng nhỏ hẹp mà một quan chức cao cấp Pháp dành cho bồi bếp, nơi B52 của Mỹ rơi giữa các vườn hoa Ngọc Hà, và xưa hơn, vết đạn đầu tiên quân Pháp bắn vào thành Hà Nội năm 1878 nay còn đó để cho ai về thăm Hà Nội có dịp nhớ lại những bước thăng trầm của dân tộc, những giờ phút vinh nhục, và nhìn về ngày mai.
Tôi cũng không nói nhiều về những gì đã được xây dựng trong mười năm qua, những khu nhà mới Trung Tự Khuông Thượng, Giảng Võ, Thành Công, Thanh Xuân, Yên Lãng, Vĩnh Hồ. Bạn về Hà Nội, quan tâm về ngành nào, về vấn đề nào đều có những cơ quan chuyên trách để trao đổi, các bộ, các viện khoa học tự nhiên và xã hội, bạn sẽ gặp những nhà văn già hay trẻ, những nhà kiến trúc hoặc người làm điện ảnh. Cơ ngơi Hà Nội còn nhỏ bé, thực dân Pháp chi dựng một thành phố mười lăm vạn dân nay đã gần một triệu (chỉ tính nội thành) và từ năm 1980, qua cuộc khủng hoảng kinh tế rồi đến chiến tranh liên miên, không còn xây dựng gì mới, mãi đến năm 1975 mới thực sự bắt đầu. Hà Nội ngày mai, thủ đô của nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện đang nằm trong các hồ sơ, trong đầu óc của nhiều người hơn là trên thực địa. Bạn về Hà Nội cố tìm xem những hồ sơ, cố gặp những con người ấy, sau khi đã tắm mình trong mấy thế kỷ của thời Thăng Long rồi bạn sẽ hình dung ra Hà Nội của thế kỷ sắp đến.