Hình tượng nhân vật trữ tình trong Nhật kí trong tù – một tâm hồn lớn, một trí tuệ lớn, một dũng khí lớn.
Hình tượng nhân vật trữ tình trong Nhật kí trong tù – một tâm hồn lớn, một trí tuệ lớn, một dũng khí lớn. 1. Mở bài – Giới thiệu hoàn cảnh sáng tác Nhật kí trong tù: năm 1942, Hồ Chí Minh trên con đường hoạt động cách mạng bị quân Tưởng Giới Thạch bắt ở ...
Hình tượng nhân vật trữ tình trong Nhật kí trong tù – một tâm hồn lớn, một trí tuệ lớn, một dũng khí lớn.
1. Mở bài
– Giới thiệu hoàn cảnh sáng tác Nhật kí trong tù: năm 1942, Hồ Chí Minh trên con đường hoạt động cách mạng bị quân Tưởng Giới Thạch bắt ở Trung Quốc và rơi vào cảnh ngộ tù đày gian lao khổ ải, trong lúc phong trào cách mạng ở nước ta đang rất cần sự có mặt của Người.
– Nhật kí trong tù được viết trong một tình thế đặc biệt: "Ngâm thơ ta vốn không ham – Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây". Một tập nhật kí chỉ nhằm ghi lại một cách chân thật những gì tác giả nếm trải ở chốn lao tù, vậy mà qua Nhật kí trong tù, chúng ta thấy hiện lên hình tượng nhân vật trữ tình Hồ Chí Minh – một tâm hồn lớn, một trí tuệ lớn, một dũng khí lớn.
2. Thân bài
Cần làm nổi bật những nội dung cơ bản sau:
– Tâm hồn lớn: đó là một trái tim tràn đầy tình yêu thương và nhạy cảm trước thiên nhiên, cuộc sống.
+ Một tâm hồn luôn rộng mở để đón nhận vẻ đẹp của thiên nhiên: dù ở bất kì hoàn cảnh nào (trong ngục, trên đường chuyển lao), dù thể xác luôn bị đày đoạ, Người vẫn phát hiện và rung động trước cái đẹp (một làn hương hoa bay vào nhà ngục, một ánh trăng lọt qua khe cửa buồng giam, một buổi chiều nơi núi rừng với "Chim ca rộn núi, hương bay ngát rừng",…) bằng trái tim đồng điệu của một thi nhân.
+ Nhưng hơn hết, đó là một trái tim đồng cảm, yêu thương mọi thân phận, mọi cảnh ngộ; đồng cảm với mọi nỗi buồn; trân trọng mọi niềm vui và lòng tốt của con người (từ một tiếng khóc trẻ thơ, một cuộc gặp gỡ "Anh đứng trong cửa sắt – Em đứng ngoài cửa sắt" đến hình ảnh một cô thiếu nữ xay ngô bên bếp lửa, một cảnh "Làng xóm ven sông đông đúc thế – Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh", một Trưởng ban họ Mạc "Chẳng dùng quyền thế, chỉ dùng ân",…). Trong bất kì hoàn cảnh nào, Người đều quên đi nỗi buồn, nỗi đau của riêng mình để chia sẻ hết mình nỗi buồn và niềm vui của con người.
– Trí tuệ lớn: đó là một trí tuệ sáng suốt, thể hiện ở tầm nhìn sắc sảo, sâu rộng trước những biểu hiện của cuộc sống xung quanh:
+ Người đã nhận ra hiện thực xã hội Trung Hoa với tất cả mặt trái của nó và đã thể hiện bằng một ngòi bút châm biếm nhẹ nhàng mà sâu cay (một xã hội Lai Tân "vẫn thái bình” mà mọi guồng quay đều đảo ngược; một người phụ nữ có chồng trốn đi lính đã được "Quan trên xót nỗi em cô quạnh – Nên lại mời em tạm ở tù";…).
+ Người đã nhận ra những quy luật sâu sắc từ những biểu hiện thường nhật của cuộc sống (Trong ngục giờ đây còn tối mịt – Ánh hồng trước mặt đã bừng soi; Hết mưa là nắng hửng lên thôi; Hết khổ lá vui vốn lẽ đời,…), để trong cảnh ngục tù, Người vẫn suy nghĩ vẽ cách mạng, về trách nhiệm của một thi nhân – chiến sĩ: "Nhà thơ cũng phải biết xung phong",..
– Dũng khí lớn: Hồ Chí Minh có một sức mạnh tinh thần lớn lao. Người luôn lạc quan trước mọi cảnh ngộ chốn lao tù. Người cảm thấy mình dù bị xiềng xích, dây trói mà vẫn như "khanh tướng vẻ ung dung", cảnh ghẻ lở mà "Gảy đàn, trong ngục thảy tri âm",… Không một trở lực nào ngăn cản được trái tim và khối óc của Người. Hơn mười ba tháng bị giam giữ, đày đoạ chốn ngục tù, Người vẫn nghĩ suy và cống hiến cho cách mạng, vẫn ung dung tự tại, làm chủ bản thân mình.
3. Kết bài
– Một tâm hồn lớn, một trí tuệ lớn, một dũng khí lớn đã làm nên hình tượng một con người luôn tự thấy mình là "khách tự do" giữa chốn lao tù. Một con người vừa ung dung tự tại như một bậc hiền triết lại vừa chủ động, tự tin, phóng khoáng giữa thiên nhiên, trời đất với một tấm lòng, một trái tim rộng mở "Ôm cả non sông, mọi kiếp người" (Tố Hữu – Bác ơi!).
– Rút ra bài học nhận thức và hành động cho bản thân trước hình tượng Hồ Chí Minh trong Nhật kí trong tù.