Hình ảnh người lính trong thơ ca những năm đầu kháng chiến chống Pháp.
Bài tham khảo Trong chín năm kháng chiến chống Pháp, hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ thường được phản ánh rất đậm nét trong thơ ca. Đó là hình tượng những người lính có những vẻ đẹp khác nhau. Có khi hình tượng đó được xây dựng theo bút pháp lãng mạn, có khi lại ...
Bài tham khảo
Trong chín năm kháng chiến chống Pháp, hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ thường được phản ánh rất đậm nét trong thơ ca. Đó là hình tượng những người lính có những vẻ đẹp khác nhau. Có khi hình tượng đó được xây dựng theo bút pháp lãng mạn, có khi lại được xây dựng theo bút pháp hiện thực. Nhưng dù được xây dựng theo bút pháp nào, tất cả đều có nét đẹp chung rất cơ bản. Ấy là những con người dũng cảm, anh hùng, sẵn sàng hi sinh cả tính mạng của mình cho Tổ quốc và có sức động viên lớn đối với nhân dân ta trong chiến tranh giải phóng dân tộc vô cùng gian khổ và ác liệt.
Tuy nhiên, mỗi hình tượng lại có những nét đẹp riêng. Tinh thần chiến đấu hi sinh và chất anh hùng ở mỗi hình tượng lại có những biểu hiện rất khác nhau.
Đọc “Tây tiến” – bài thơ được viết theo bút pháp lãng mạn nên hình ảnh người lính trong “Tây tiến” xuất hiện trong một bối cảnh hoang vu, hiểm trở, vừa hùng vĩ, vừa dữ dội khác thường:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Một hình thể gập ghềnh, cheo leo của dốc núi được tạo ra bởi những thanh trắc và cách dùng chữ rất bạo; nào là “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”, “súng ngửi trời”… Rồi đột nhiên, dòng thơ như bị bẻ đôi để vẽ ra hai dốc núi vút lên và đổ xuống gần như thẳng đứng: “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”, rồi bỗng dưng, dòng thơ như bay ngang lưng trời bởi một câu thơ độc đáo toàn thanh bằng: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Trong khung cảnh đó, ta tưởng tượng những người lính đang tạm dừng chân nơi những sườn núi chênh vênh, phóng tầm mắt ra xa, thấy nhà ai thấp thoáng ẩn hiện qua một không gian mịt mù sương rừng, mưa núi… Và bất chợt, trên cái nền hiểm trở và hùng vĩ đó, những người lính “Tây tiến” xuất hiện cũng thật oai phong và dữ dội khác thường:
Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới…
Từ một thực tế gian khổ của người lính do thiếu thốn và bệnh sốt rét rừng hành hạ, da dẻ xanh xao, đầu trụi cả tóc nhưng dưới ngòi bút lãng mạn của nhà thơ đã biến thành bức chân dung lẫm liệt oai hùng. Đặc biệt hình tượng người lính trong “Tây tiến” phảng phất bóng dáng của người anh hùng theo kiểu những hình tượng các chinh phu, tráng sĩ cưỡi ngựa vung gươm, áo bào đỏ thắm, phong độ hào hoa, ra đi không hẹn ngày về trong thơ ca lãng mạn trước năm 1945. Vâng, nhà thơ Quang Dũng đã khắc họa hình tượng người lính trong “Tây tiến” như vậy.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Rồi ngay cả hình ảnh những người lính trong sinh hoạt và trong chiến đấu trong những hoàn cảnh vô cùng thiếu thốn, phần thì chết vì sốt rét, phần thì chết vì chiến trận, lúc chôn cất có khi manh chiếu che thân cũng không có. Nhưng dù thế, hình tượng người chiến sĩ trong thơ vẫn phải đẹp, phải sang, phải hào hùng:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Nói đến cái bi mà không lụy, vẫn đẹp và hào hùng, bài thơ quả có màu sắc bi tráng độc đáo. Ngoài ra, hình tượng người lính trong Tây tiến còn có thêm vẻ đẹp khác. Đó là nét hào hoa thanh lịch, chất thơ mộng lãng mạn:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lèn man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên-chăn xây hồn thơ.
Một tiếng reo thầm đầy vui sướng trước người đẹp trong xiêm áo độc đáo của vũ nữ dân tộc Lào. vẻ đẹp đó càng rực rỡ hơn trong đêm liên hoan…
Khác với “Tây tiến”, hình ảnh người lính trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu được miêu tả dưới một bút pháp hiện thực. Người lính xuất hiện trong bài thơ không trên một bối cảnh khác thường, mà đặc biệt xuất hiện trong môi trường quen thuộc, bình dị thường thấy ở các làng quê còn đói nghèo xơ xác hồi ấy:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Mà làng quê Việt Nam xưa nơi nào chẳng có giếng nước gốc đa, nơi người dân quê gặp gỡ nhau hàng ngày. Đó còn là nơi “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”, ở đây, tác giả cũng không che giấu mà trái lại còn nhấn mạnh đến cái nghèo đói và lam lũ của họ:
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày.
Nhưng vẻ đẹp của người lính ở đây là tình đồng chí, tình đồng đội, gắn với tình giai cấp giữa những người nông dân mặc áo lính. Họ gần gũi nhau vì cùng ra đi từ một làng quê đói nghèo. Trong kỉ niệm của họ, cũng cảnh đồng ruộng, cũng những túp lều tranh “gió lung lay”… Và khi trở thành người lính, họ lại gặp nhau trong hoàn cảnh thiếu thốn lam lũ của người lính, cũng chẳng khác hoàn cảnh của những người dân cày bao nhiêu. Cái gần gũi, cái giống nhau, cái thống nhất là điều được nhấn mạnh hơn là cái đặc biệt, cái phi thường. Và sự thống nhất cao hơn cả là tình đồng chí. Đây là tình cảm lớn khiến cho những người “xa lạ”, từ những phương trời “chẳng hẹn quen nhau”, bỗng chốc thành thân thiết, thậm chí, thành đôi tri kỉ. Đó cũng chính là sức mạnh tinh thần to lớn khiến họ rời bỏ ruộng nương, gia đình, coi thường mọi gian khổ, hi sinh. Vâng, với họ, chỉ cần “thương nhau tay nắm lấy bàn tay” là đủ hơi ấm để chống chọi với những cơn sốt run người, với những ngày buốt giá và cả với giặc thù.
Rồi còn đó những người chiến sĩ “Lên cấm Sơn” (Thôi Hữu), là những người luôn vươn lên để chiến thắng. Chiến thắng hoàn cảnh, chiến thắng bệnh tật, chiến thắng quân thù. Sông kham khổ nơi rừng núi hiu quạnh nhưng vẫn vui và luôn đem lại ánh sáng, nhịp sống mới cho bản làng. Vậy đó, ở đâu có người lính là ở đó có niềm vui. Còn bài “Nhớ” của Hồng Nguyên miêu tả những chiến sĩ trẻ, cuộc đời lưu động nhưng đầy lạc quan trong sáng. Những ngày đầu kháng chiến, bộ đội ta rất nghèo, thiếu thốn đủ thứ. Về văn hóa thì “chưa biết chữ”, về quân sự thì “súng bắn chưa quen”… nhưng “lòng vẫn cười vui”.
Hình ảnh anh bộ đội trong thơ lúc bấy giờ thật đẹp. Họ thật sự là những người anh hùng nhưng không có vẻ gì là anh hùng, là oai phong lẫm liệt cả. Sức mạnh lớn nhất của họ là tình đồng chí, là lòng yêu nước. Nhờ vậy mà khi có giặc, khi cần thiết là họ lại “đứng bên nhau chờ giặc tới”…