Hãy tả cây đa cổ thụ – một cảnh đẹp của chốn quê hương
Từ bến đò Yến, em đã nhìn thấy làng em. Qua một cánh đồng bao la, con đường liên xã dài hơn hai cây số, em nhìn thấy rõ hình bóng quê hương yêu dấu: cây đa Mục Bài in bóng xanh thẫm trên bầu trời. Mỗi lần đi xa về, em cảm động tưởng như cây đa ...
Từ bến đò Yến, em đã nhìn thấy làng em. Qua một cánh đồng bao la, con đường liên xã dài hơn hai cây số, em nhìn thấy rõ hình bóng quê hương yêu dấu: cây đa Mục Bài in bóng xanh thẫm trên bầu trời. Mỗi lần đi xa về, em cảm động tưởng như cây đa làng Hương đang giơ tay vẫy chào, đón đợi.
Cây đa tọa lạc trên một bãi cỏ rộng đến ba sào cạnh ngã ba đường vào xóm Bầu xóm Bến. Cách xa cây đa độ trăm mét là đình Hương, nổi tiếng khắp vùng. Cây đa tỏa bóng xanh um. Ông nội em cho biết: "Cụ Nghè đã trồng cây đa này và đặt tên là Mục Bài. Đã mười đời nay, con cháu cụ, dòng họ Trịnh vẫn tự hào về cây cổ thụ. Có lẽ đã trên dưới 200 năm rồi đấy…".
Gốc đa xù xì, phải đến năm sáu người ôm mới xuể. Rễ cây nâu đen như một bầy trăn khổng lồ cuồn cuộn, nửa chìm nửa nổi ôm lấy gốc đa, cắm sâu vào bốn phía. Có nhiều rễ phụ từ cành cao đâm thẳng đứng, có những chùm tua tủa bằng chiếc đũa màu gạch đỏ, có những rễ phụ to bằng cổ tay, cổ chân chĩa thẳng xuống. Năm tháng trôi qua, những rề phụ này sẽ xuyên sâu vào lòng đất, để hút màu mỡ nuôi cây, để làm cho gốc cây vừa to thêm vừa vững chắc. Gốc đa là nơi nghỉ mát cho khách bộ hành, là nơi đón đợi tụ hội của trẻ mục đồng, của học sinh làng Hương…
Lá đa to và dày bằng bàn tay người lớn. Mùa xuân cây đa nảy lộc, lá non màu đỏ hung, búp đa nhọn tua tủa như muôn nghìn ngọn giáo nhọn hoắt đâm thẳng lén bầu trời, dân làng em vẫn gọi là "giáo búp đa". Cuối tháng hai, lá đa xanh rì, xanh ngắt, cành lá sum sê. Tán đa, vòm đa đứng xa nhìn như một chiếc dù xanh khổng lồ bung nở. Hoa đa như nụ vối nụ chè, nhưng to hơn. Tháng 5, tháng 6 mùa hè, quả đa chín đỏ mọng, rồi đen thẫm lại như trái bồ quân, như quả táo tàu trong gói thuốc bắc. Quả đa chín có vị ngọt, chúng em vẫn nhặt đa rụng chia nhau. Hạt đa như hạt kê đen nhánh, rất cứng, hoặc theo phân chim, hoặc theo gió đưa đi xa, gieo giống vào đầu non sườn núi, khắp bốn cõi. Dưới vòm lá đa xanh là nơi cò đậu khi hoàng hôn, là nơi trú mưa của đàn én, là nơi hội họp của bầy sáo. Mùa trái chín, cây đa hiền thảo gọi về hàng trăm con sáo. Chúng hót ríu ran, chúng tranh nhau, cãi nhau chí chóe để tranh giành trái chín từ sáng sớm đến chiều tà.
Dưới gốc cây đa Mục Bài, bà con làng Hương đã tìmg làm lễ tiền đưa con em mình ra trận thời chống Mĩ. Là nơi lưu luyến tiễn con của những mẹ già, nơi thương nhớ tiễn chồng của những người vợ trẻ. Cây đa chắc còn nhớ những giọt nước mắt hậu phương, chắc còn nhớ 124 gương mặt những chàng trai làng Hương đi đánh giặc mãi không về.
Từ ngày đình làng còn là trường học cấp 2 của xã, cây đa gốc đa Mục Bài là nơi tụ hội của đám học trò nghịch như quỷ sứ. Sân bóng cũng là đây. Phá tổ chim, hái quả chín, cũng là đây. Nhưng sau ngày có một học sinh trèo đa bị ngã què, cây đa trở thành cõi thiêng, đồn đại nhiều chuyện lạ!
Em chưa dám một lần trèo đa. Nhưng em và bạn em đã nhiều lần đi vòng quanh gốc đa, ôm lấy gốc đa, ngước mất nhìn lên những cành đa to như cột đình, ngắm vòm lá xanh, nghe chim hót, nghe gió thổi lá reo mà thấy lòng tuổi thơ xôn xao khó tả. Cụ Nghè họ Trịnh đã trồng cây đa. Phải chăng cụ muốn để đức sâu nghĩa nặng cho con cháu, để lại bóng mát cho bà con. Câu hát của chị gái vẫn làm em xúc động khi nhớ, khi nghĩ về làng Hương yêu dấu, cây đa Mục Bài thân thương của mình:
"Cây đa cũ, bến đò xưa,
Bộ hành có nghĩa, nắng mưa vẫn chờ".