31/05/2017, 22:16

Hãy làm rõ giá trị hiện thực nhân đạo trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ

Đề bài: Qua cuộc đời hai nhân vật Mị và A Phủ, hãy làm rõ giá trị hiện thực nhân đạo trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ Bài làm 1: Văn xuôi giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954) thực sự là một quá trình thí nghiệm, kiếm tìm sự phù hợp mới giữa nghệ thuật và đời sống. Thời gian ngắn, số lượng ...

Đề bài: Qua cuộc đời hai nhân vật Mị và A Phủ, hãy làm rõ giá trị hiện thực nhân đạo trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ Bài làm 1: Văn xuôi giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954) thực sự là một quá trình thí nghiệm, kiếm tìm sự phù hợp mới giữa nghệ thuật và đời sống. Thời gian ngắn, số lượng tác phẩm còn lại được đến hôm nay không nhiều, nhất là ở hai thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn. Chúng ta đặc biệt trân trọng những ...

Đề bài: Qua cuộc đời hai nhân vật Mị và A Phủ, hãy làm rõ giá trị hiện thực nhân đạo trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ

Bài làm 1:

Văn xuôi giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954) thực sự là một quá trình thí nghiệm, kiếm tìm sự phù hợp mới giữa nghệ thuật và đời sống. Thời gian ngắn, số lượng tác phẩm còn lại được đến hôm nay không nhiều, nhất là ở hai thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn. Chúng ta đặc biệt trân trọng những phẩm kết tinh được bước phát triển của chặng đường văn học đặc biệt này, trong đó có truyện ngắn xuất sắc Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài.

Vợ chồng A Phủ vừa là thành tựu tương đối hiếm hoi của văn xuôi kháng chiến, vừa ghi dấu sự trưởng thành của ngòi bút Tô Hoài trong sự chiếm lĩnh mảng đề tài miền núi, một đề tài tới nay vẫn còn nhiều mới lạ với bạn đọc. Truyện được tổ chức chặt chẽ, dẫn dắt rất dung dị, tự nhiên, không cần chạy theo những chi tiết li kì rùng rợn mà vẫn có sức hút mạnh mẽ. Có được điều đó chính là nhờ ở cái nhìn hiện thực sắc bén và chủ nghĩa nhân đạo tích cực của nhà văn. Sự thể hiện cuộc đời hai nhân vật trung tâm từ bóng tối đau khổ, ô nhục vươn ra ánh sáng của tự do và nhân phẩm, đã chứng minh rất rõ điều đó.

vo chong a phu

Giá trị hiện thực nhân đạo trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ

   Cô Mị xinh đẹp, chăm làm nhưng nghèo khổ, có thể nói “khổ từ trong trứng”. Bố mẹ nghèo, cưới nhau không có tiền phải vay nợ nhà thông lí. Nợ chưa trả hết, người mẹ đã qua đời. Bố già yếu quá, món nợ truyền sang Mị. Thống lí Pá Tra muốn Mị làm con dâu “gạt nợ”. Mà quan trên đã muốn, kẻ dưới làm sao thoát được ! Pá Tra xảo quyệt, lợi dụng tục lệ của người Mèo, cho cướp Mị về. Thế là không có cưới hỏi, không cần tinh yêu mà vẫn hoàn toàn hợp lẽ. Có ai dám bênh vực Mị ! Ngòi bút hiện thực tỉnh táo của Tô Hoài đã phanh trần bản chất bóc lột giai cấp ẩn sau những phong tục tập quán. Cô Mị, tiếng là con dâu nhưng thực sự là một nô lệ, thứ nô lệ người ta không phải mua mà lại được tha hồ bóc lột, hành hạ. Mị ở nhà chồng như ở giữa địa ngục. Không có tình thương, không sự chia sẻ vợ chồng; chỉ có những ông chỉ độc ác, thô bạo và những nô lệ sống âm thầm, tăm tối. Dần dần rồi Mị cũng quên luôn cả mình là người nữa.

Suốt ngày “Mị lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, lúc nào cũng có mặt, thế giới của Mị thu hẹp trong một cái ô cửa sổ “mờ mờ trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Kết quả của hoàn cảnh sống thật chua xót: “ở lâu trong cái khổ Mị quen rồi”, cố nhẫn nhục, cam chịu đến thành tê liệt ý thức: “là con trâu con ngựa phải đổi từ cái tàu ngựa nhà này sang ở cái tàu ngựa nhà khác, con ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết làm mà thôi”. Ai có thể ngờ cô gái trẻ trung, yêu đời ngày nào thổi sáo hồi hộp chờ đợi người yêu, đã từng hái lá ngón định ăn để không chịu nhục, giờ đây lại chai lì, u mê đến thế. Quả thật hoàn cảnh quyết định tính cách. Nguyên tắc biện chứng của chủ nghĩa hiện thực đã được nhà văn tuân thủ nghiêm ngặt. Sự yếu đuối của kẻ nô lệ, sự vùi dập tàn bạo của bọn bóc lột tất sẽ dẫn đến cảnh ngộ bi đát ấy. Nỗi khổ nhục của cô gái Mèo này that đã có ihể so sánh với nỗi nhục của Chí Phèo khi “đánh mất cả nhân tính lẫn nhân hình” (Thật ra, Chí Phèo còn có lúc nghênh ngang, còn doạ nạt được người khác). Nếu xem xét giá trị hiện thực của một tác phẩm như là sự phản ánh chân thực cuộc sống, thì Vợ chồng A Phủ quả là bản cáo trạng hùng hồn về nỗi thống khổ của người phụ nữ miền núi, vừa chịu gánh nặng của chế độ bóc lột phong kiến, vừa bị trói chặt trong xiềng xích của thần quyền. Tâm lí nơm nớp lo “con ma nhà thống lí” đã nhận mặt mình từ buổi bị bắt về “cúng trình ma” một ám ảnh ghê gớm đè nặng suốt cuộc đời Mị (ngay cả đến khi cô đã trốn thoát khỏi Hồng Ngài). Xem thế đủ thấy bọn thống trị cao tay đến nhường nào trong nghệ thuật “ngu dân” để dễ trị.

Có thể nói nhà văn đã không hà tiện cung cấp cho người đọc những chi tiết có giá trị bóc trần bản chất xã hội vô nhân đạo. Ở đó thân phận người nghèo mới mong manh bất ổn làm sao! Ta sững sờ trước cảnh cô Mị lặng lẽ ngồi hơ lửa trong những đêm đông buốt giá, thằng chồng đi chơi về khuya ngứa tay đánh Mị ngã dúi xuống đất. Lại còn cái hình ảnh nhức nhối phũ phàng người con gái bị trói đứng vào cột trong buồng tối, bị trói chỉ vì muốn đi chơi như bạn bè. Sự bất lực của Mị trang ra theo dòng nước mắt chát trên má trên môi mà không có cách gì lau đi được.

Những chi tiết như vậy làm cho bức tranh hiện thực nới rộng thêm dung lượng và sinh động thêm. Sự xuất hiện của nhân vật chính A Phủ tạo thêm tình huống để hoàn chỉnh bức tranh đó. Cuộc đời nô lệ của A Phủ thật ra là sự lặp đi lặp lại với ít nhiều biến thái chính cuộc dời Mị. Lí do mà thông lí Pá Tra bắt Phủ phải thành người ở không công, không phải vì cuộc ẩu đả thường tình đám đám trai làng. Vân đề là ở chỗ: pháp luật trong tay ai? Khi kẻ phát đơn kiện cũng đồng thời là kẻ ngồi ghế quan toà thì nói gì tới công lí nữa! Vậy nên mới có cái cảnh xử kiện quái gở nhât trên đời mà chúng ta được chứng kiến tại nhà thống lí. Kết quả là người con trai khoẻ mạnh phóng khoáng vì lẽ công bằng mà phải đem cuộc đời mình trả nợ nhà quan.

Cảnh ngộ của hai nhân vật Mị và A Phủ ít nhiều gợi đến những Chí Phèo, chị Dậu, những chú AQ và những thím Tường Lâm… Đó là những hình tượng nghệ thuật được cô đúc từ chính cuộc đời đau khổ trong xã hội cũ.

Nhưng, nếu nói giá trị hiện thực của lác phẩm Vợ chồng , A Phủ mà chỉ phân tích khía cạnh phơi bày, tố cáo, phê phán thông qua những cảnh ngộ bi thảm của người dân lao động là còn chưa đủ. Nhiều tác phẩm hiện thực phê phán sâu sắc vẫn bị xem như có hạn chế trong tầm nhìn và bởi thế, giá trị hiện thực sẽ không được toàn vẹn. Tô Hoài, trong khi đào sâu vào hiện thực đã phát hiện ra con đường tất yếu mà các nhân vật của ông đi tới. Sự đè nén quá nặng nề, những đau khổ chồng chất mà bọn thống trị gây ra tất sẽ dồn những kẻ khốn cùng ấy tới sự chống trả. Và nếu gặp được ánh sáng soi đường, họ sẽ đến được thắng lợi (Tô Hoài có cái may mắn là viết Vợ chồng A Phù sau Cách mạng tháng Tám). Tất nhiên nhà văn phải có con đường riêng cho sự thể hiện chân lí đơn giản ấy. Lấy việc miêu tả tâm lí làm điểm tựa vững chắc, Tô Hoài đã tìm ra được sự phát triển lôgich của các tính cách. Chúng tôi nghĩ đây mới thực sự là giá trị hiện thực độc đáo của tác phẩm, và là chỗ có sức thuyết phục mạnh mẽ nhất. Tô Hoài đã chỉ ra sự hợp lí của quá trình tha hoá nhân cách ở Mị thời kì đầu. Mị làm việc nhiều quá, bị đày đoạ khổ ải quá, mãi rồi Mị phải  “quen”, phải cam chịu, Lúc trước Mị không được quyền tự tử vì sợ liên lụy tới bố; giờ bố đã chết, nhưng Mị không còn muốn tự tử nữa. Mị như một cái máy không ý thức, không cảm xúc, ước ao… Liệu cô ta có thể tỉnh thức được nữa không? Nhà văn trả lời: có. Nếu đã có một hoàn cảnh làm tê liệt lâm hồn con người thì cũng sẽ có một hoàn cảnh đánh thức được nó. Hoàn cành nào đây? Phép màu nào đây? Kì diệu thay và cũng giản đơn thay, đó chính là tiếng sáo Mị tình cờ nghe được giữa một ngày mùa xuân đầy hương sắc. Tất cả chợt sống đậy. Mị thấy lòng “thiết tha bồi hồi” và lập tức nhớ lại cả quãng đời niên thiếu tươi đẹp. Có gì lạ đâu nhỉ? Thanh niên Mèo ai chả yêu tiếng sáo, mà Mị lại là cô gái thổi sáo giỏi. Hơn nữa, tiếng sáo đang dập dờn ngoài kia lại nhắc đến tình yêu, “gọi bạn yêu”, nó thức dậy trong sâu thẳm lòng cô khát vọng yêu đương và hạnh phúc. Như vậy tiếng sáo lay động chính cái sức mạnh bền vững, bất diệt nhất của luổi trẻ. Mị nhớ lại rành rõ “mình vẫn còn trẻ lắm”, rằng “bao nhiêu người có chồng vẫn đi chơi xuân”. Và bên tai Mị cứ “lững lờ” tiếng sáo! Sự bừng tỉnh từ sâu xa trong tâm hồn ấy biểu hiện bên ngoài bằng hành động mới nhìn rất lạ: “Mị lén lấy hũ rượu cứ uống ừng ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đầy”. Có ngọn lửa nào đang cần phải khơi lên hay cần phải dập tắt đi bằng hơi men vậy? Chỉ biết rằng cô gái đã quả quyết thay váy áo để đi chơi, điều mà bao nãm rồi, cô không nhớ đến. Có thể coi đây là một bước đột biến tâm lí nhưng là kết quả hợp ư của toàn bộ quá trình tác động qua lại giữa cảnh với tính cách nhân vật. Sự “vượt rào” của Mị tuy bị đàn áp ngay (A Sử tắt đèn, trói đứng cô vào cột), nhưng chí ít thì ý thức về quyền sống, khát vọng về hạnh phúc đã trở lại. Mị lại biết khóc, lại muốn tự tử. Và những giọt mắt trong cái ngày tàn nhẫn này sẽ lưu giữ trong lòng Mị như một vết bỏng rát để đến khi bắt gặp những dòng nước mắt chảy “lấp lánh” trên gò má hốc hác của A Phủ, nó đã biến thành sự đồng cảm sâu sắc giữa những người cùng khổ. Toàn bộ ý thức phản kháng của Mị hiện hình qua một câu hỏi sáng rõ: “Người kia việc gì phải chết?”. Mị quyết định trong khoảnh khắc: cắt dây trói giải thoát cho A Phủ. Và tất nhiên, Mị cũng bỏ trốn, tự giải thoát chính mình. Hai kẻ chạy trốn chịu ơn nhau, cảm thông nhau, dựa vào nhau để tạo lập hạnh phúc, nhưng khi cái đồn Tây lù lù xuất hiện và lại có cha con thống lí Pá Tra về ở trong đồn, thì họ thật sự bị dồn đến chân tường. Trước mắt họ, chỉ còn sự lựa chọn cuối cùng: trở lại kiếp nô lệ hay chống kẻ thù. Chắc chắn họ thà chết còn hơn lại sống như cũ. Nhưng muốn chống kẻ thù, họ trông cậy vào ai? Cách mạng đã đến với họ đúng giây phút ấy. Mị và A Phủ đi theo cách mạng, sẽ thủy chung với cách mạng như một lẽ tất yếu!

Bằng sự am hiểu cuộc sống và khả năng phân tích những vấn đề xã hội sắc bén, nhất là bằng ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế, Tô Hoài đã tái hiện chân thật và sinh động cuộc hành trình từ đau khổ, tối tăm ra phía ánh sáng cách mạng của những người dân lao động dưới chế độ cũ. Tác phẩm đem lại cho bạn nhận thức đúng đắn về con đường cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta. Ngoài ra, giá trị hiện thực của truyện còn được gia tăng bằng màu sắc địa phương rất đậm nét với cảnh sắc, phong tục, sinh hoạt của người Mèo, bằng bản sắc tâm hồn độc đáo của các nhân vật. Cùng một số phận, một cảnh ngộ, những diễn biến tâm lí của Mị rất khác A Phủ. A Phủ mạnh mẽ, bộc trực, dứt khoát dường như chín chắn hơn nhưng lại yếu đuối hơn…

Bất cứ tác phẩm văn học nào cũng chứa đựng thái độ của nhà văn đối với cuộc sống, trước hết là với con người. Ngay giá trị hiện thực của Vợ chồng A Phủ đã để lại ra cái nhìn nhân đạo, ưu ái của Tô Hoài. Khi cô đúc nỗi cùng khốn vào hai thân phận nô lệ với ý thức làm một bản cáo trạng về xã hội cũ, Tô Hoài đã gợi lên trong chúng ta sự căm phẫn, sự đau xót, sự cảm thông. Khi miêu tả buổi lễ ăn thề giữa A Châu và A Phủ như là cuộc nhân duyên giữa quần chúng và cách mạng, ông đem lại niềm tin về một tương lai sáng sủa cho những người bị áp bức.

Thật ra cũng khó tách bạch đâu là giá trị hiện thực, đâu là giá trị nhân đạo một tác phẩm như Vợ chồng A Phủ. Hiện thực và nhân đạo nhiều khi hoà trộn với nhau. Không thể không nói đến tính chân thực, chính xác, lôgic ở những đoạn mô tả tâm lí. Nhưng rõ ràng phải biết thông cảm, biết trân trọng nâng niu người lắm mới có thể xét đoán tâm hồn người ta tinh tế như vậy. Tôi cứ nhớ mãi hình ảnh cô Mị lần tìm về quỳ lạy trước mặt bố mà khóc nức nở. Đứa con chưa kịp nói gì, người cha đã biết: “Mày về quỳ lạy lao để mày chết đấy à? Không được đâu con ơi”. Mị ném nắm lá ngón xuống đất, quay trở lại chốn địa trần gian. Phải, cô gái ấy vốn có một nhân cách đáng trọng. Cô thà chết khỏi sống khổ sống nhục, nhưng lại phải chấp nhận sống khổ nhục còn hơn bất hiếu với cha. Chính Mị, khi còn rất trẻ đã biết xin bố: “Con nay đã lớn rồi, sẽ thay bố làm nương trả nợ. Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Đó là con người biết yêu quý tự do, biết khẳng định quyền sống. Ngay cả lúc bị hoàn cảnh vùi dập đến mê mụ, trong tro tàn của lòng cô vẫn còn âm ỉ đốm than hồng của niềm ham sống, khát khao thương yêu. Nếu nhà văn chỉ tuân theo một thứ hiện thực khách quan lạnh lùng thì làm sao ông có thể đón đợi và nắm bắt tài tình giây phút sống lại bất ngờ và mãnh liệt đến thế của cô gái. Không, trước sau ông vẫn tin rằng hoàn cảnh dẫu có khắc nghiệt đến mấy, cũng không thể tiêu diệt hoàn toàn nhân tính. Mị đã sống lại băng luổi trẻ, bằng nổi day dứt về thân nhân của mình. Chính cái khát vọng sống mãnh liệt không thể chết được ở Mị, làm cho Mị đồng cảm với cảnh ngộ của A Phủ và đi đến quyết định giải thoát cho A Phủ, giúp Mị tự giải thoát khỏi cái chốn địa ngục để làm lại cuộc đời, để được sống như một con người.

Tô Hoài đã trân trọng từng bước trưởng thành của Mị và A Phủ. Cái nhìn của ông về hai nhân vật này là một cái nhìn nhân đạo tích cực. Ông cảm thông nỗi đau của Mị và A Phủ. Cái nhìn của ông về hai nhân vật này là một cái nhìn tích cực. Ông cảm thông nỗi đau của Mị và A Phủ, mặt khác ông trân trọng ý thức nhân phẩm, khát vọng giải phóng và tin ở khả năng tự làm chủ trước cuộc đời của hai con người đau khổ này. Phải chăng, chính cái nhìn đó đã tạo nên giá trị của tác phẩm?.

Bài làm 2:

Giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực của “Vợ chồng A Phủ” và “Vợ nhặt”

1, Với vợ chồng A phủ tác giả Tô Hoài đã vẽ lại chân thực cái không khí ngột ngạt của một vùng quê Tây Bắc trước cách mạng. Ở đó có đủ cả các giai tàng xã hội: có địa chủ phong kiến (ở đó gọi là thống lý), có giai cấp lao dộng (A Phủ) và một lớp người trong giai cấp lao động đó là người phụ nữ (tiêu biểu là nhân vật Mị); có cả ánh sáng cách mạng và một lũ cầm cờ chaỵ hiệu tay sai.Ở đó hiện lên một cái không khí quánh đặc lại của một màu xámư xin xỉn và tăm tối như cái bóng đêm trong Chị Dậu.
Tô Hoài đã diễn tả được lại những khó khan trong cuộc sống của người lao đông trong xã hội cũ thông qua diễn biến tâm trạng cua Mị. Cô Mị là nhân vật trung tâm, là cành, là nhánh, là gốc rễ của vợ chồng A Phủ, là người đã thông qua ngòi bút Tô Hoài mà nói, mà than thở, mà sống, ma buồn cho cái nỗi buồn chung của xã hội. Cô, từ một cô gái vừa có tài vừa có sắc, đã bị cái giai cấp đó cái xã hội đó biến trở thành một thứ công cụ, một thứ vật dụng để mua vui. Quyền con người ở đây đã bị chà đạp, bị đè nén, bị giày xéo để xiết rên lên những ngôn từ thảm hại. Nó còn tệ hơn cả Chí Phèo trước cách mạng, nó không được chết, nó cứ lửng lơ trong cái cảnh sống dở chết dở, muốn ngóc cao đầu dậy lại bị một bè lũ phong kiến tay sai ấn dập xuống. Và dần dần, nó biến chất, trở thành, hoặc là xấu xa như cái giai cấp thượng tầng chèn ép nó, hoặc là nó trở nên vô cảm, một cái vô cảm đáng sơn giữa những con người cùng chung một cảnh ngộ đắng cay.
Với A Phủ quyền sống trong con người đã trỗi dậy. A Phủ gặp mị chính là cuộc gặp gỡ lịch sử giữa những người lao động, khác hòan cảnh, khác than thế khác xuất thân, nhưng đều có chung một kẻ thù giai cấp. Cú đấm của A Phủ giáng xuống mặt A Sử ở đầu truyện chính là cú đấm đã thả ra biét bao nhiêu tủi nhục, cú đấm đã giáng thẳng xuống đầu, xuống mặt kẻ thù bằng sức mạnh bị chèn nén của khó khăn, của đói kém và cùng khổ. A Phủ chính là hiện thân tuyệt vừoi của người chiến sĩ cách mạng tiền thân ở một vùng cao Tây BẮc. Sức mạnh đó dù đã có lúc rỉ máu khi A Phủ bị treo lên cột nàh banừg những dây rợ những đòn roi phong kiến, nhưng rồi lại bùng phát lên dữ dội tnành một tia sáng chọc vào giữa cái màn đêm đen dày của lịch sử, soi đường cho một cuộc vượt ngục quyết dịnh, chạy bỏ quá khứ để huớng tới tương lai.
Chú ý đến màn đêm ở cuối truỵen: với Tắt đèn cuối truyện là một màn đêm tăm tối của sự bế tắc thì ở A Phủ, trong cái màn đêm thăm thẳm vô biên đã có ánh sáng, tuy còn mờ của cách mạng. Con người lao động trong Mị & A Phủ đã tìm ra nguồn sáng, trên con đường chạy thoát số phận, tìm ve với hạnh phúc để rồi đứng lên, giáng trả lại kẻ thù.
2, Với vợ nhat bạn tập trung phân tích đến tình huống truyện, diễn biến tâm trạng của nhan vật để rồi đẩy tới trả lời cau hỏi: tại sao tác phẩm lại có tên là vợ nhặt. Việc anh cu Tràng “nhặt” được vợ một cách rất tình cờ và không đúng lúc như thế có ý nghĩa
gì ( chính là tinh thần nhân đaọ và tình yeu thương vẫn hướng về nhau dù trong đau khổ đói rét và bện tạt). Hình ảnh ở cuối truỵen chính alf giá trị hiện thực,. Trong bóng đêm nghìn nghịt của thời đại, tình yêu vẫn nhen lên những tai sáng cứng cáp và mạnh mẽ, để soi tỏ tương lai và tiến tới tuơng lai.

Bài làm 3:

Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo của truyện ngắn Vợ nhặt ( Kim Lân)

Gợi ý làm bài

Các ý chính:

1. Giới thiệu vắn tắt về Kim Lân và truyện ngắn Vợ nhặt

Vợ nhặt là một trong những truyện ngắn đặc sắc cuae nhà văn Kim Lân , in trong tập Con chó xấu xí. Vợ nhặt có tiền thân là truyện Xóm ngụ cư – viết ngay sau Cách mạng tháng Tám. Bản thảo chưa in thì bị thất lạc, sau này được tác giả viết lại.

2. Giá trị hiện thực của tác phẩm Vợ nhặt

– Bối cảnh của truyện ngắn Vợ nhặt là khung cảnh nông thôn Việt Nam vào một thời kì ngột ngạt và đen tối nhất- đó là nạn đói năm Ất Dậu 1945. Bọn thực dân Pháp và phát xít Nhật buộc người nông dân phải nhổ lúa và hoa màu để trồng đay, phục vụ cho nhu cầu chiến tranh. Người dân các tỉnh ở đồng bằng Bắc bộ lâm vào nạn đói khủng khiếp, gần hai triệu người chết đói. Hiện thực đau thương đó đã được phản ánh trong nhiều truyện của Nguyên Hồng, Tô Hoài và thơ của Văn Cao… Nhà văn Kim Lân cũng góp tiếng nói tố cáo của mình trong tác phẩm Vợ nhặt.

– Đặc sắc nghệ thuật của nhà văn Kim Lân trong tác phẩm Vợ nhặt là mặc dù không có một dòng nào tố cáo trực tiếp tội ác của bọn thực dân Pháp và phát xít Nhật, hình ảnh của chúng cũng không một lần xuất hiện, nhưng tội ác của chúng vẫn hiện lên một cách rõ nét. Khung cảnh làng quê ảm đạm, tối tăm. Những căn nhà úp súp . Những xác chết nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người…

– Cuộc sống của người nông dân bị đẩy đến bước đường cùng. Tính mạng của con người lúc này thật rẻ rúng, người ta “ nhặt” được vợ giống như nhặt cái rơm, cái rác ở bên đường. Thông qua tình huống truyện lấy vợ của Tràng, Kim Lân không chỉ nói lên được thực trạng đen tối của xã hội Việt Nam trước Cách mạng , mà còn thể hiện được thân phận đói nghèo, bị rẻ rúng của người nông dân trong chế độ xã hội cũ ( Chú ý phân tích cảnh bữa cơm đón nàng dâu mới ở nhà Tràng vào thời điểm đói kém: giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối và một đĩa muối ăn với cháo…rồi nồi “ chè khoán” nấu bằng cám.) Ở phần cuối của tác phẩm, những nhân vật nghèo khó này cũng khao khát sự đổi thay về số phận. Chúng ta cũng thấy thoáng hiện lên niềm dự cảm của tác giả về tương lai, về cách mạng( qua hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng và những đoàn người đi phá kho thóc của Nhật).

3. Giá trị nhân đạo của tác phẩm Vợ nhặt

– Kim Lân đã viết về cuộc sống của người nông dân Việt Nam trước cách mạng với một niềm đồng cảm, xót xa, day dứt. Nếu không có một tình cảm gắn bó thực sự với người nông dân , không trải qua những năm tháng đen tối ấy, không dễ gì viết nên được những trang sách xúc động và thấm thía đến thế.

– Giá trị nhân đạo của tác phẩm còn được thể hiện ở chỗ, nhà văn đã phát hiện và miêu tả những phẩm chất tốt đẹp của người lao động. Mặc dù bị xô đẩy đến bước đường cùng, mấp mé bên cái chết, nhưng những người nông dân vẫn cưu mang, giúp đỡ nhau, chia sẻ cho nhau miếng cơm, manh áo. Hiện thực cuộc sống càng đen tối bao nhiêu ( chú ý phân tích cảnh bà cụ Tứ chấp nhận cô con dâu mới trong lúc gia đình cãng đang rất khó khăn, không biết sống chết lúc nào, đê làm nổi rõ tình người của họ).

– Kim Lân cũng thể hiện một sự trân trọng đối với khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc và mái ấm gia dình của người nông dân.

Trong hoàn cảnh khó khăn, nhưng bà cụ Tứ và vợ chồng Tràng vẫn luôn hướng tới một cuộc sống gia đình đầm ấm, hạnh phúc ( cần chú ý những chi tiết diễn tả tâm trạng bà cụ Tứ, thái độ của Tràng, vợ Tràng trong bữa ăn, rồi nhà cửa , sân vườn đều được quét tước , thu dọn sạch sẽ, gọn ghẽ).Một cái gì mới mẻ, khác lạ đang đến với mỗi thành viên trong gia đình bà cụ Tứ và hé mở trước họ một niềm tin về tương lai.

4. Kết luận

Vợ nhặt là một tác phẩm thành công của nhà văn Kim Lân. Qua tác phẩm này, chúng ta không chỉ nhận thấy tài năng của nhà văn, sự hiểu biết sâu sắc, cặn kẽ của ông về cuộc sống của người nông dân, mà điều quan trọng hơn đó chính là cái tâm, cái tấm lòng gắn bó thiết tha, sâu nặng của Kim Lân đối với những người lao động nghèo khó trước Cách mạng

Bài làm 4:

Đề bài: Chứng minh giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc trong tác tác phẩm “ vợ chồng A Phủ của Tô Hoài “ qua nhân vật Mị và A phủ.

BÀI LÀM

Cùng với tiếng sáo thiết tha, câu hát của chàng trai Hmông trong đêm tình mùa xuân càng trở nên bồi hồi

“ Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu”

Và những chiếc váy hoa của các cô gái trong các làng Hmông đỏ đem phơi nắng trên những mỏm đá” xòe như con bướm sặc sỡ”. Chuyện thống lí Pá Tra và bọn chức việc Hồng Ngài xử kiện đánh con quan… đã cho ta nhiều xúc động khi đọc truyện “ vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài. Truyện ngắn được rút trong tập “ Truyện Tây Bắc” nó là kết quả của chuyến đi tháng 8/ 1952, khi nhà văn theo bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Truyện không chỉ đặc sắc về giá trị về nội dung mà còn mang giá trị nhân đạo và hiện thực rất sâu sắc. Sau sự vùng dậy của những tháng ngày đầy tủi nhục đau khôt cả máu và nước mắt của Mị và A Phủ.
Trước hết để thấy được sự sâu sắc về giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm thì người đọc phải hiểu thế nào là giá trị hiện thực và nhân đạo. Hiện thực  chính là bức tranh cuộc sông với tất cả những gì diễn ra như vốn có, còn nhân đạo là sự cảm thông sâu sắc mà ngòi bút của tác giả hướng tới trong tác phẩm. Đặt trong bối cảnh của tác phẩm “ vợ chồng A Phủ” thì hiện thực được thể hiện rõ nhất trong nỗi đau khổ đè nặng lên cuộc sống của người dân. Từ đó thấy được bộ mặt tàn ác dã man của chế độ xã hội phong kiến miền núi. Bởi con người ở đây bị ràng buộc bởi thần quyền và cường quyền. Từ đấy thấy được sự đấu tranh của con người để giải phóng bản thân, hướng tới hạnh phúc. Chính hiện thực và nhân đạo như trên đã đem đến nét đặc sắc, giá trị to lớn cho tác phẩm.
Truyện làm xúc động bao người đọc bởi thực trạng nỗi đau khổ đè nặng lên cuộc sống của người dân lao động nghèo trước cách mạng. Đó là những con người nghèo khổ lạc hậu bị áp bức, bị trà đạp nặng nề. Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị là một cô gái Mèo xinh đẹp thổi sáo hát hay có nhiều chàng trai mê, co chăm chỉ hiếu thảo với cha già, trong cô luôn khát vọng về một cuộc sống tự do hạnh phúc. Món nợ truyền kiếp do bố mẹ Mị lấy nhau không có tiền vay thống lí Pá Tra năm nào cũng phải trả lãi một nương ngô, đó là sợ dây truyền oan nghiệt đối với Mị. Hạnh phúc không đến với Mị thời con gái. Mị đã bị A Sử con trai thống lí Pá Tra bắt cóc về cúng trình ma. Mị trở thành con dâu gạt nợ cho nhà thống lí. Mị làm dâu nhưng thực chất là nô lệ, vùi dập, chà đạp tước đi mọi quyền sống của con người, từ đây Mị sống kiếp sống của con vật. Ở đoạn đầu của tác phẩm hình ảnh Mị “ một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy dù quay sợ, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên cô ấ cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Cách miêu tả này của Tô Hoài đã cho người đọc thấy được các trơ lì, vô cảm của Mị giống như kiếp con ngựa. Hình ảnh ấy đối lập hoàn toàn với nhà thống lí quyền thế giàu có “có nhiều nương nhiều ruộng nhiều thuốc phiện nhất làng”. Trong công việc Mị lúc nào cũng cúi mặt xuống Mị nghĩ “ mình không bằng con trâu con ngựa”. Căn buồn Mị ở như chuồng nhốt thú kín mít qua ô cửa sổ bằng bàn tay mình nhận ra chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay nắng. Nó thể hiện sự tù túng âm u lạnh lẽo giống như địa ngục trần gian hãm thể xác và tâm hồn của Mị. Mị không chỉ bị tước đoạt về sức lao động mà còn bị áp chế về cả tinh thần “ nó đã bắt mình về trình mà nhà nó rồi thì chỉ còn đợi chết ở đây thôi”. Lúc mới làm dâu nhà thống lí Pá Tra đêm nào Mị cũng khóc, tủi cực Mị tìm đến cái chết. Mị toan ăn lá ngón tự tử. Nhưng Mị thương cha già “mày chết nhưng nợ tao vẫn còn, quan lại bắt tao trả nợ. Mày chết rồi thì ai làm nương ngô ngô giả được nợ người ta. Tao thì ốm yếu quá rồi. Không được con ơi!” Mị ném nắm là ngón xuống đất. Mị quay trở lại với kiếp sông trâu ngựa “sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”
Nếu như Mị phải chịu cái khổ khi bị gạt nợ thì A Phủ lại đau một nỗi đau khác. A Phủ hiện lên là một con người nghèo mà bất hạnh. Mới có mười tuổi mà đã mồ côi cả cha lẫn mẹ sau một trận đậu mùa. A Phủ bị rơi vào hoàn cảnh bơ vơ không ai lương tựa. Anh bị người làng bán xuống vùng thấp không chịu được cùng khổ anh trốn lên núi lưu lạc đến Hồng Ngài. Sau khi đánh A sử con trai thống lí Pá Tra, A Phủ bị trói bị đánh đập một cách tàn nhẫn. A Phủ hoàn toàn chịu bất lực “mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt giập chảy máu”. Trong vụ xử phạt ấy, A Phủ bị phạt 100 đồng  bạc trắng. Vì không có tiền trả Pá Tra cho vay rồi A Phủ trở thành nô lệ. A Phủ phải cam chịu đi giết lợn làm cỗ để khoản đãi những kẻ đã đánh và hành hạ mình. Anh chấp nhận làm tất cả những công việc nặng nhọc trong nhà thống lí “đốt rừng cày nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng”. Nhưng anh không hề có ý định bỏ trốn. Trong nhà thống lí Pá Tra anh bị bóc lột một cách tàn nhẫn, chúng cho anh sống thì được sống, bắt anh chết thì phải chết. Chỉ vì đánh mất con bò mà A Phủ bị trói đến gần chết. Thân phận nô lệ có lẽ được bộc lộ rõ nhất trong cảnh A Phủ bị trói nhiều ngày trên núi cao chịu đau, chịu đói, chịu rét nếu không có Mị cắt dây trói cho chắc A Phủ sẽ phải chết trên cái cọc ấy
Qua nhân vật Mị và A Phủ người đọc đồng cảm với cảnh ngộ người lao động miền núi trước đây dưới ách áp bức bóc lột của gia đình thống lí Pá Tra. Những con người giàu sức sống dần dần bị tê liệt sống cam chịu và chấp nhận số phận. Mị sống âm thầm lặng lẽ thì A Phủ cũng vậy. Từ một chàng trai khỏe khoắn táo bạo của núi rừng, A Phủ trở thành con người chỉ biết cam tam chịu đựng. Anh như con gnuwja đóng cương không dám cãi lời chủ
Bên cạnh đó còn thấy được nỗi đau khổ đè nặng lên cuộc sống của người dân thì Tô Hoài còn cho bạn đọc thấy sự phơi bày được bộ mặt tàn ác của xã hội phong kiến miền núi tiêu biểu đại diện là cha con nhà thống lí Pá Tra. Sự tàn ác của chế độ phong kiến miền núi mà điển hình là cha con nhà thống lí Pá Tra, những mảnh đòi bị vùi dập, cuộc sống của con người trở thành địa ngục trần gian. Cả hai nhân vật Mị và A Phủ đều bị đày đọa, chà đạp bởi nguyên nhân sâu xa vẫn là hình thức cho vay nặng lãi. Mị thì bị gạt nợ sống kiếp sống của con vật, A Phủ thì bị phạt nợ phải sống làm trâu là ngựa cho nhà thống lí. Cái nạn cho vay nặng lãi đã cột chặt vào người nông dân mà không sao trốn thoát được. Nó hủy hoại cả cuộc đời con người họ và là sợi dây oan nghiệt cho những thế hệ sau. Mị bị bắt cóc đem về “ cúng trình mà”. Mị trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí. Bố Mị chỉ còn biết khóc và cất lời than “ chao ôi! Thế là cha mẹ ăn bạc của nhà giàu từ kiếp trước, bây giờ người ta bắt bán con trừ nợ. Không thể nào làm khác được rồi!”. Với danh nghĩa là con dâu hay người ở thì tất cả đều là nô lệ bị bóc lột sức lao động một cách tàn bạo. Mị phải làm quần quật suốt đêm ngày, lúc hái củi, lúc bung ngô, lúc đi nương, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế! Đau khổ quá, Mị như kẻ vô cảm vô hồn ngày “ càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Bao mùa xuân đã trôi qua, Mị trưởng mình cũng là con trâu con ngựa “ chỉ biết ăn cỏ, chỉ biết đi làm mà thôi” như một linh hồn chết “ Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa”. Hình ảnh Mị cúi mặt quay sợi đay bên tảng đã đầy ám ảnh, gợi lên trong lòng ta nhiều thương xót mênh mông về một kiếp người on khổ- con dâu gạt nợ. Sự bóc lột tàn ác ấy đâu chỉ riêng với Mị, còn với A Phủ phải cam chịu với thân phận làm nô lệ. Khi bị bọn thống lí Pá Tra đánh đập và cúng trình ma, xong anh anh phải cam chịu đi giết lợn làm cỗ để khoản đãi những kẻ đã hành hạ mình. Với bản chất của anh hùng vùng núi cao vậy mà anh phải chấp nhận làm tất cả công việc nặng nhọc trong nhà thống lí “đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng” nhưng dường như trong suy nghĩ của anh không hề có ý định chạy trốn. Trong nhà thống lí Pá Tra, A Phủ bị bọc lột đến tàn nhẫn, chúng cho anh sống thì được sống, bắt anh chết thì phải chết. Chỉ vì đánh mất con bò mà A Phủ bị trói đến gần chết. Có lẽ thân phận nô lệ được bộc lộ rõ nhất trong cảnh A Phủ bị trói nhiều ngày trên núi cao chịu đau, chịu đói, chịu rét. Nếu không có Mị cắt dây trói chắc A Phủ sẽ phải chết trên cái cọc ý.
Bản chất tàn bạo vô nhân tính ấy còn được thể hiện ở hành động dã man của A sử đối với Mị. Điều đau xót nhất với Mị là sống với người chồng mà mình không hề yêu thương mà còn bị đánh đập hành hạ. Nhưng khi đêm tình mùa xuân lại trở về trên núi cao, tiếng sáo tiếng khèn gọi bạn tình. Mị nhẩm theo lời bài hát, Mị uống rượu, lấy chiếc váy xòe mặc, bối tóc. Nhưng khát vọng của Mị chưa được thực hiện thì bị A sử chặn đứng lại dùng “ A sử bước lại, nắm tóc Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách ra cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống A sử quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi được, không nghiêng được đầu nữa. Dây trói xiết chặt làm cho da thịt Mị đau nhức như đứt ra từng mảng thịt”, đau đớn xót xa “ Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”. Sau khi A Phủ đánh A sử bị thương, Mị được cởi trói để đi lấy lá thuốc cho chồng “Mị cũng thức suốt đêm im lặng ngồi xoa thuốc dấu cho chồng. Lúc nào Mị mỏi quá, cựa mình, thì những chỗ lằn trói trong người lại đau ê ẩm. Mị lại gục đầu nằm thiếp đi. Khi đó, A sử bèn đạp chân vào mặt Mị. Mị choàng thức, lại nhặt nắm là thuốc xoa đều trên lưng chồng”. Những đêm đông trên núi cao dài và buồn nếu như không có bếp lửa làm bạn thì Mị sẽ chết tàn chết héo, mỗi đêm Mị trở dậy hơ tay, hơ lưng, không biết bao nhiêu lần. Có đêm A sử chợt về thấy Mị ngồi đấy hắn liền đánh Mị ngã ngay xuống bếp lửa. Hành động của A sử cho thấy hắn là một kẻ vũ phu, những quan niệm lạc hậu của xã hội phong kiến miền núi vẫn còn tồn tại
Với Mị là vậy còn với A Phủ những hành động ấy còn tàn ác dã man hơn. Trước hết điều đó được thể hiện ở màn xử kiện phạt vạ. Mở màn là hình ảnh đầy ám ảnh A Phủ bị trói, bị đánh đập một cách tàn nhẫn “ người thì đánh, người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Xong một lượt đánh, kẻ chửi, lại hút”. Tất cả cứ như một vòng tuần hoàn “ cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”. Hành động tàn ác ấy đã khiến “ mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt giập chảy máu”. Tất cả đâu chỉ có vậy, sự tàn ác còn được thể hiện khi A Phủ làm mất con bò để hổ ăn thịt, A Phủ bị cha con thống lí Pá Tra trói đứng vào cột ở giữa núi rừng mùa đông Hồng Ngài. Sương muối giá buốt lại bị bỏ đói. Chỉ là mất con bò thôi mà bọn chúng đã coi mạng sống của con người như một con động vật rẻ mạt, không có giá trị
Nếu như trong cùng một giai đoạn văn học này, trong tác phẩm”Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, chị Dậu phải chịu sự ràng buộc của sưu cao thuế nặng, thì trong truyện ngắn “ Vợ chồng A Phủ” này cả hai nhân vật đều chịu sự chi phối ràng buộc của thần quyền. Đó chính là phương thức hữu hiệu để giai cấp thống trị nô dịch người dân nghèo. Mị bị bắt về làm dâu với thân phận đàn bà, lại đã cúng trình ma nhà thống lí Pá Tra, Mị không còn cách nào khác chỉ biết sống tiếp “nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi” và từ đấy Mị sống trong danh nghĩa là con dâu nhưng thực chất là thân phận nô lệ.
Chính nỗi đau bất hạnh của Mị và A Phủ cùng với sự tàn nhẫn độc ác của cha con thống lí Pá Tra đã làm thức dậy tinh thần phản kháng của người đàn bà yếu đuối. Tình thương tiềm ẩn trong Mị không chết, cũng như sức sống của Mị không thể bị tê liệt hoàn toàn. Trong đêm đông rẻo cao ấy sức sống của Mị đã hồi sinh khi Mị bắt gặp dòng nước mắt của A Phủ “ một ngọn lửa sưởi vừa bùng lên Mị né mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước lấp lánh đang bò xuống hai hõm má xám đen lại”. Giọt nước mắt của người đàn ông tràn đầy sức sống giàu can đảm nhưng ở đây đang ở thết tuyệt vọng và oan ứ đã có tác động sâu sắc tới Mị. Giọt nước mắt ấy đã khiến Mị từ cõi quên đến cõi nhớ. Nhớ lại A sử đã trói Mị không quên cảm giác uất hận đau đớn và từ đây trái tim Mị không cô đơn nữa. Mị đã thấy được kẻ thù “ chúng nó thật độc ác” quá phẫn lộ “ cơ chừng này chỉ đêm mai người kia sẽ chết,chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Cách ngắt nhịp ngắn và điệp từ “ chết” đã diễn tả những căm phẫn và xót thương đang ào ạt dâng lên trong lòng Mị. Bởi hơn ai hết Mị hiểu thế nào là chết đau, chết đói, chết rét, trên cơ thể kia. Trỗi dậy trong lòng Mị lúc này là tinh thần phản kháng mạnh mẽ, tình thương đã đem lại chó Mị sức mạnh khiến Mị từ người phụ nữ vô cảm, cam chịu nô lệ trở thành người phụ nữ can đảm mạnh mẽ. Mị toan định cởi trói cho A Phủ, nhưng Mị nghĩ đến biết đâu A Phủ chạy trốn được Mị bị trói thay vào đó và chết ở đó thì sao? Nhưng dù nghĩ như vậy nhưng Mị cũng không thấy sợ bởi lòng can đảm và sức mạnh trong Mị đã trở lại. Nó đã dẫn đến hành động táo bạo rút dao cắt đứt dây trói. Đây là hành động bất ngờ đến với cô nhưng lại là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng mãnh liệt trong Mị. Mị đã chạy băng trong đêm tối theo người đàn ông xa lạ với khát vọng một tương lai tươi sáng hơn. Hành động quyết liệt và mạnh mẽ của Mị trong đêm ấy không chỉ giải phóng cho A Phủ mà còn giải phóng cho chính bản thân mình. Cùng lúc đó Mị đã phải vượt lên hai sức mạnh của cường quyền và thần quyền để có sức mạnh tự do đi theo con đường cách mạng. Điều đó chứng tỏ rằng giai cấp thống trị có thể đày đọa người lao động nhưng không thể dập tắt được khát vọng sống và khát vọng tự do của họ.
Nửa thế kỉ đã trôi qua, nhưng truyện ngắn này vẫn đứng vững trước thời gian và thử thách của bạn đọc. Từ sự đổi đời của Mị và A Phủ, Tô Hoài như muốn gửi tới bạn đọc một triết lí: muốn có sự đổi đời, muốn được sống tron tự do và hạnh phúc thật sự thì phải đấu tranh, phải một lòng đi theo cách mạng và kháng chiến, hơn thế phải có tình yêu thương giữa con người với con người. Đó là giá trị đích thực của áng văn này “ giá trị hiện thực và nhân đạo”

0