Giôn Lốccơ (1632 – 1704)
Giôn Lốccơ (John Locke) là đại biểu duy cảm điển hình của chủ nghĩa duy vật Anh. Hêghen nói: Khoa học nói chung và nhất là các khoa học kinh nghiệm, bởi nguồn gốc của mình, phải mang ơn phương pháp của Lốccơ". Ngoài ra Lốccơ còn là nhà kinh tế – chính trị học. Triết học ...
Giôn Lốccơ (John Locke) là đại biểu duy cảm điển hình của chủ nghĩa duy vật Anh. Hêghen nói: Khoa học nói chung và nhất là các khoa học kinh nghiệm, bởi nguồn gốc của mình, phải mang ơn phương pháp của Lốccơ". Ngoài ra Lốccơ còn là nhà kinh tế – chính trị học. Triết học của ông là cơ sở phương pháp luận của các nhà kinh tế – chính trị học tư sản cổ điển trước Mác.
Giôn Lôccơ sinh năm 1632 trong một gia đình công chức nước Anh. Năm 20 tuổi ông theo học ở trường đại học tổng hợp Ôxpho. Nhưng chán cảnh học theo chương trình của phái kinh viện, ông bỏ học, say mê nghiên cứu những vấn đề y học và triết học. Không chịu được cảnh sống trong xã hội Anh sau cách mạng tư sản, ông lưu vong sang Pháp, rồi sang Hà Lan và mất năm 1704. Tác phẩm triết học lớn nhất của ông là Kinh nghiệm về lý tinh con người (1690).
Triết học của Lốccơ chủ yếu đề cập đến những vấn đề nhận thức luận. "Đối với mục đích thật sự của tôi, ông viết chỉ cần nghiên cứu các khả năng nhận thức của con người, việc chúng được vận dụng trong nhận thức khách thể mà sự vật có liên quan là đủ".
a, Sự phê phán của Lốccơ về học thuyết các tư tưởng bẩm sinh. Nguyên lý tabula rasa
Lốccơ mở đầu nhận thức luận của mình bằng việc phê phán học thuyết thừa nhận tồn tại các tư tưởng bẩm sinh của Đềcáctơ và môn phái theo học thuyết trên. Theo Đềcáctơ, trong con người có sẵn các tư tưởng bẩm sinh mà chân lý của chúng rất xác thực, và do vậy, dễ dàng được mọi người thừa nhận. Đó là các tư tưởng chẳng hạn như các tiên đề toán học, những tri thức sơ đẳng, các quy luật lôgíc V.V.. Sau đó Lépnít phát triển tiếp quan niệm trên sửa đổi lại rằng trong con người tồn tại các khả năng bẩm sinh.
Phê phán học thuyết duy tâm trên đây, Lốccơ tìm cách luận chứng sự vô lý của nó. Theo ông, "Để thuyết phục những độc giả Không có thành kiến gì về sự giả dối của quan niệm trên, chỉ cần vạch ra tại sao mà mọi người chỉ đơn thuần dựa vào những khả năng tự nhiên của mình, không cần đến những ý niệm bẩm sinh, mà vẫn có thể có được toàn bộ tri thức của mình và đi đến chân lý".
Thừa nhận tư tưởng bẩm sinh tức là thừa nhận con người ngay khi sinh ra đã có chúng rồi. Nhưng có nhiều trẻ em, Lốccơ khẳng định, thậm chí nhiều người lớn tuổi nhưng vô học, đều không biết cả những điều sơ đẳng. Hơn nữa, nếu khẳng định trong chúng ta có tư tưởng bẩm sinh (tức các chân lý hiển nhiên) thì như vậy toàn bộ quá trình nhận thức trở nên thừa, bởi vì điều đó "chẳng khác gì khẳng định rằng suy lý đã khám phá cho con người những điều mà anh ta đã biết từ trước rồi". Cho nên, toàn bộ các tri thức, chân lý đều là kết quả nhận thức của con người chứ không phải là bẩm sinh. Tương tự như vậy, tất cả các chuẩn mực đạo đức, pháp luật v.v. đều không phải là bẩm sinh. Ngay giữa các nước, các dân tộc cũng không có các quan niệm giống nhau về các chuẩn mực trên. Trong khi đó, nếu chúng là bẩm sinh thì phải là như nhau đối với mọi người. Lốccơ nhận xét: ngay cả tính đúng đắn và chính nghĩa cũng không phải được tất cả mọi người thừa nhận là những nguyên lý của luân lý. Có nghĩa là các nguyên tắc của luân lý cần phải được chứng minh, và do vậy chúng không phải là bẩm sinh".
Từ việc phê phán học thuyết thừa nhận các tư tưởng bẩm sinh, Lốccơ kết luận: "nếu như chúng ta để ý đến những đứa trẻ mới sinh, thì chúng ta sẽ có ít cơ sở để nghĩ rằng chúng mang đến cho thế gian nhiều tư tưởng. Bởi vì loại trừ có thể có những ý niệm mơ hồ về cái đói, khát, đau đớn mà chúng có được từ trong bụng mẹ, thì trong chúng không thể có biểu hiện tí nào của các ý niệm nhất định, nhất là các ý niệm tương ứng với từ ngữ tạo nên các mệnh để mà người ta coi là những nguyên lý bẩm sinh. Chúng dần dần có được ở trong linh hồn con người nhờ kinh nghiệm, cũng như sự quan sát của con người đối với các sự vật xung quanh".
Đối vật với học thuyết duy tâm trên, Lốccơ đưa ra nguyên lý tabula rasa (tấm bảng sạch): "linh hồn chúng ta khi mới sinh ra, có thể nói như một tờ giấy trắng, không có một ký hiệu hay ý niệm nào cả".
Nguyên lý này lần đầu tiên được Arixtốt nêu ra, được Lốccơ phát triển. Theo cách hiểu của ông, những nguyên lý này khẳng định: "thứ nhất, mọi tri thức của con người không phải là bẩm sinh, mà là kết quả của nhận thức con người; thứ hai, mọi quá trình nhận thức đều phải xuất phát từ các cơ quan cảm tính; thứ ba, linh hồn con người không phải đơn thuần là "Tấm bảng sạch” hoàn toàn thụ động đối với mọi hoàn cảnh xung quanh, mà có vai trò tích cực nhất định. "Trong số những người được giáo dục như nhau, Lốccơ nhận xét, tồn tại một sự bất bình đẳng rất lớn về khả năng" trí tuệ của họ.
Tóm lại, trong việc phê phán học thuyết về các tư tưởng bẩm sinh, cũng như trong sự khẳng đinh nguyên lý tabula rasa
Lốccơ đang trên lập trường duy vật. Hạn chế của ông là chưa nhận thấy một cách đầy đủ cơ sở kinh tế – xã hội của học thuyết thừa nhận các tư tưởng bẩm sinh. Vè mặt nhận thức, trên thực tế, học thuyết duy tâm trên là kết quả của việc sùng bái, đề cao một cách phiến diện vai trò của lý tính, trí tuệ của con người tới mức cực đoan, phủ nhận vai trò của các khả năng cảm tính trong quá trình nhận thức. Thực chất quan niệm trên đây xuất phát từ việc sùng bái vai trò của các ngành khoa học tự nhiên lý thuyết đang phát triển mạnh thời kỳ này. Mặc dù vậy, việc phê phán trên đây của Lốccơ đối với học thuyết duy tâm có nhiều ý nghĩa tích cực. Ông đã đưa ra nhiều chứng cứ thực tế và xác thực để bác bỏ sự sai trái của nó, từ đó lý giải nguồn gốc của các tri thức con người một cách duy vật.
b, Cấu trúc của kinh nghiệm và quá trình nhận thức. Học thuyết về chất có trước và chất có sau
Theo tinh thần duy vật của nguyên lý tabula rasa, Lốccơ khẳng định: "mọi tri thức đều dựa trên kinh nghiệm, và suy cho cùng đều xuất phát từ đó. Sự quan sát của chúng ta hướng tới các sự vật bên ngoài hoặc là hướng vào chính hoạt động của linh hồn… Đó là nguồn gốc chính mà từ đó xuất phát mọi ý niệm ". Coi kinh nghiệm là nguồn gốc duy nhất của mọi tri thức, nhà duy vật Anh hiểu kinh nghiệm không chỉ là khả năng nhận thức cảm tính (tức kinh nghiệm bên ngoài), mà cả bản thân lý tính (được ông gọi là kinh nghiệm bên trong). Việc coi bản thân lý tính cũng chỉ là một dạng kinh nghiệm cho thấy Lốccơ hoàn toàn đứng trên lập trường duy cảm, với luận điểm nổi tiếng "không có cái gì trong lý tính, mà trước đó lại không có trong cảm tính".
Toàn bộ các tri thức mà con người có được như nhận thức đều được Lốccơ gọi là "ý niệm". Quá trình nhận thức được ông miêu tả như sau: ở giai đoạn thứ nhất, các sự vật tác động vào các giác quan của chúng ta “tức kinh nghiệm bên ngoài). Từ đây con người có được các tư liệu về những đặc tính cá biệt, về bên ngoài của các vật dưới dạng đơn nhất. Tất cả các tri thức này được Lốccơ gọi chung là các "ý niệm đơn giản". Tiếp đến là giai đoạn hai: trên cơ sở các tư liệu mà cảm tính đem lại, lý tính bắt đầu quá trình so sánh, phân tích V.V.. tạo ra các phạm trù, khái niệm chung thể hiện các đặc tính giống nhau của một nhóm sự vật nhất định, chẳng hạn như vật chất, con người, thực thể v.v. những cái được ông gọi là các "ý niệm phức tạp". Tuy vậy, Lốccơ tách biệt cả hai giai đoạn nhận thức trên. Hơn nữa, theo lập trường duy danh, ông chỉ thừa nhận mọi sự vật trong giới tự nhiên tồn tại dưới dạng đơn nhất. Vì vậy, các ý niệm đơn giản là các sản phầm tự nhiên và mang tính quy luật của các sự vật xung quanh ta và thực sự tác động vào chúng ta". Nhưng đối với các "ý niệm phức tạp" tức các phạm trù, khái niệm chung… thì ông lại coi kết quả hoạt động của riêng lý tính hoàn toàn chủ quan của con người, chứ không phản ánh đặc tính nào của sự vật cả.
Xuất phát từ việc phân chia cấu trúc kinh nghiệm trên đây, và việc thừa nhận một số tư tưởng có nguồn gốc hoàn toàn chủ quan trong lý tính con người, Lốccơ đi đến phân chia các tính chất của sự vật thành các "chất có trước" và các "chất có sau". Các "chất có trước" là nhĩmg đặc tính khách quan vốn có của sự vật như khối lượng, quảng tính… Chúng không thể mất đi dù sự vật có biến đổi thế nào chăng nữa. Chẳng hạn, chúng ta chia nhỏ cục đất đến đâu chăng nữa, thì nó vẫn có khối lượng, quảng tính nhất định. Còn những "chất có sẵn" là những chất không có các đặc tính trên, chẳng hạn như âm thanh, mùi vị, màu sắc V.V.. Đó là những đặc tính dễ biến đổi, Lốccơ không nhất quán khi lý giải nguồn gốc và bản chất của các "chất có sau". Khi thì ông cho rằng chúng có được nhờ sự tác động của các sự vật khách quan vào các giác quan của chúng ta. Lúc thì ông lại coi chúng hoàn toàn là sản phẩm chủ quan của con người. Do vậy, sự khác nhau giữa các chất có trước" và các "chất có sau" thể hiện ở chỗ "các ý niệm của chất có trước của các sự vật thì giống với các sự vật đó và mô phỏng nguyên hình ảnh của chúng thi thực sự tồn tại trong các sự vật. Nhưng còn các ý niệm của chất có sau thi không giống với các sự vật. Trong chính các sự vật không có gì giống với những ý niệm đó của chúng ta cả. Chính sự không nhất quán trên đây của Lốccơ là đối tượng phê phán của Béccơly.
Tóm lại, trong quan niệm về kinh nghiệm và việc phân chia các sự vật thành chất có trước” và “chất có sau" thể hiện lập trường duy vật không triệt để của Lốccơ. Điều đó dễ hiểu vì ông, theo nhận xét của Ph. Ăngghen, là con đẻ của sự thỏa hiệp giai cấp ở Anh năm 1688. Tuy vậy, lập trường duy cảm của Lốccó có nhiều ý nghĩa tích cực trong việc phê phán các quan niệm duy tâm duy lý thời đó. Sự phân chia các sự vật thành "chất có trước” và "chật có sau” là sự nhấn mạnh một cách cực đoan sự khác nhau nhất định đó, chúng ta mới thấy được vai trò của hoạt động con người trong việc cải tạo thế giới. Mặc dù còn nhiều hạn chế, nhưng triết học của Lốccơ là một trong những nguồn gốc lý luận cơ bản của triết học Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII.