25/05/2018, 12:11

Dư địa chí

là cuốn sách về địa lý của Việt Nam thời xưa do Nguyễn Trãi, khai quốc công thần nhà Hậu Lê, soạn năm 1435 thời vua Lê Thái Tông. xác định duyên cách, bờ cõi lãnh thổ của Việt Nam từ thời dựng nước. Lãnh thổ đó được xác định bằng những địa danh, địa hình, ...

là cuốn sách về địa lý của Việt Nam thời xưa do Nguyễn Trãi, khai quốc công thần nhà Hậu Lê, soạn năm 1435 thời vua Lê Thái Tông. xác định duyên cách, bờ cõi lãnh thổ của Việt Nam từ thời dựng nước. Lãnh thổ đó được xác định bằng những địa danh, địa hình, lịch sử cụ thể, gắn liền với tên tuổi những nhân vật lịch sử có công dựng nước và giữ nước. là một tác phẩm khoa học chống lại mưu đồ thôn tính đất nước Việt Nam, đồng hóa dân tộc Việt.

không chỉ khẳng định cương vực, lãnh thổ biên giới, mà còn khẳng định những bước tiến lên của nền văn minh, văn hiến Việt Nam bằng những tư liệu địa lý, lịch sử cụ thể.

Ngoài việc ghi rõ sự phân chia lãnh thổ thành các đơn vị hành chính, có xác định địa danh, cương giới từ các đạo, phủ, huyện, châu, hương, xã, thôn, phường, bãi, trang, động, sách, sở, trại cũng với bộ máy quản lý lãnh thổ, biểu hiện một xã hội văn minh đã phát triển. chú ý đến cả địa lý, dân số. Thí dụ: đời nhà Lý có 3.300.100 đinh; thời nhà Trần có 4.900.000 đinh... Điều đó biểu lộ rõ quan điểm gắn con người với đất đai như một nhà khoa học nào đó đã nhấn mạnh: đất đai không gắn liền với con người thì đất đai đó trở thành vô nghĩa; còn xác định cả số thanh niên (hoàng nam) trong dân số: thời Trần chiếm gần 50% trong tổng số suất đinh để thấy sức trẻ đang lên của dân tộc.

Đứng trên quan điểm lịch sử, thật đáng đề cao về sự quan tâm đặc biệt đến tổ chức sản xuất xã hội. Tác phẩm không chỉ nói đến con người và đất đai, mà cố gắng đi sâu vào các tài nguyên cơ bản của đất nước có sự tác động của bàn tay khéo léo, khối óc thông minh của con người để tạo ra sản phẩm: đó là lao động nông nghiệp và thủ công nghiệp.

Cụ thể về tài nguyên đất đai, tuy khả năng điều tra về thổ nhưỡng lúc đó còn có hạn, nhưng không quên nêu lên nhận thức của con người đương thời về chất đất và độ phì nhiêu của đất. Ví như, về đất thượng kinh, sách viết: " Ở vùng này, đất thì vàng mềm, ruộng thì vào hạng thượng trung:. Hay về đất Hưng hóa: "Ở vùng ấy, đất thì đỏ, dính màu mỡ, ruộng thì ở vào hạng thượng, hạ".

Về tài nguyên thực vật, tất nhiên lúa ngô là phổ biến nhưng còn chú ý đến các loại đặc sản như: ở An Bang (tức Quảng Ninh ngày nay) thì: "bờ biển có trầm ngư". Hay ở Thuận Hóa (Trị Thiên ngày nay) thì đất màu mỡ, đen, hợp với trồng thuốc hút và thứ hạt tiêu to...

Về tài nguyên động vật không chỉ chú ý đến voi ngựa, trâu, dê mà còn chú ý đến các đặc sản như chim anh vũ (vẹt) biết nói hay loại tê giác vốn là quý hiếm mà ta cũng có...

Về tài nguyên biển và nước, hải sản, cũng chú ý đến các đặc sản như: " Ở Sơn Nam có cá rô Thịnh Liệt, ở Thần Đầu có cá hình người, ở Kỳ Hòa Nghệ An có cá Thốc Tử".

Về tài nguyên khoáng sản điều rất đáng ca ngợi ở là tuy lúc đó công nghiệp chưa phát triển, ngành khai khoáng, luyện kim còn thô sơ nhưng Nguyễn Trãi rất quan tâm đến của cải Việt Nam trong lòng đất. Riêng về đất Cao Bằng, Nguyễn Trãi ghi: "Ở Vũ Kiến có vàng, ở Lông Trạch có bạc, ở Bảo Nang có sắt, ở Bắc Sơn có đồng, ở Tân Phú có chì"

Về nông nghiệp thì sự đa dạng của đất đai cộng với sự thông minh, cần cù, dũng cảm của nông dân Việt Nam đã tạo ra những nông sản phong phú như long nhãn, cam đường, cau, dừa, tơ tằm, đay, da, mật ong, sáp ong, chè, hạt tiêu,...Còn về thủ công mỹ nghệ thì nào là vải, lụa, gấm vóc, dù lọng, rượu cúc, bát chén Bát Tràng, điều Hàng Đào, vải nhuộm thắm Huế Cầu...Tất cả như vẽ lên một bức tranh về cuộc sống văn minh, thanh lịch của con người Việt Nam. Đồng thời cũng nói lên bàn tay khéo léo của những ngành nghề thủ công Việt Nam.

0