Đọc hiểu đoạn trích Nỗi thương mình
Đọc hiểu đoạn trích Nỗi thương mình I - Gợi dẫn 1. Truyện Kiều là một tác phẩm lớn của văn học cổ điển Việt Nam. Qua số phận đầy bi kịch của nàng Kiều, tác phẩm thể hiện một tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm là khát vọng hạnh phúc và tiếng khóc cho thân phận con người, là tiếng nói đanh thép ...
Đọc hiểu đoạn trích Nỗi thương mình
I - Gợi dẫn 1. Truyện Kiều là một tác phẩm lớn của văn học cổ điển Việt Nam. Qua số phận đầy bi kịch của nàng Kiều, tác phẩm thể hiện một tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm là khát vọng hạnh phúc và tiếng khóc cho thân phận con người, là tiếng nói đanh thép lên án những thế lực xấu xa đã chà đạp và cướp đi quyền sống hạnh phúc của con người
Tác phẩm thể hiện tiếng lòng ai oán, niềm xót thương vô hạn đối với cái đẹp bị chà đạp và tàn phá không tiếc thương. Truyện Kiều không chỉ là nơi toả sáng tài năng của Nguyễn Du và ngôn ngữ dân tộc mà còn là nơi hội tụ vẻ đẹp tâm hồn dân tộc.
2. Đoạn trích Nỗi thương mình hội tụ hai yếu tố cơ bản làm nên giá trị của Truyện Kiều cả về nội dung và nghệ thuật. Đó là sự cảm thông sâu sắc, sự đồng cảm của nhà văn đối với bi kịch của con người và nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật đạt đến trình độ sắc sảo, tinh tế. Sau khi “trao duyên” cho Thuý Vân và rơi vào tay Mã Giám Sinh, Kiều mới biết mình rơi vào tay một kẻ phàm phu tục tử, rồi bị mua về làm gái lầu xanh. Đau đớn tột cùng, nàng tự vẫn nhưng không thành, sau đó lại bị Sở Khanh lừa và Tú Bà buộc nàng phải ra tiếp khách. Từ một cô gái đức hạnh sống trong cảnh “Êm đềm trướng rủ màn che – Tường đông ong bướm đi về mặc ai” bị buộc phải sống cuộc sống “Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh”, Kiều đã vô cùng đau đớn. Trong nỗi đau tột cùng vì thân thể và nhân phẩm bị chà đạp ấy, nàng đã luôn nhớ đến cha mẹ, đến hai em và đến Kim Trọng. Càng nhớ càng đau, càng day dứt. Nỗi lòng tê tái của nàng cũng chính là một phương diện toả sáng nhân phẩm của nàng.
3. Cách đọc
Đọc chậm, nhấn giọng ở các từ ngữ chỉ thời gian, tâm trạng, thể hiện nỗi chua xót đến tột độ. Câu cuối đọc chậm hơn, thể hiện sự bế tắc, tủi nhục của Thuý Kiều.
II - Kiến thức cơ bản
Có thể nói trong mười lăm năm lưu lạc, Thuý Kiều đã trải qua muôn sự lọc lừa. Nhưng lần Thuý Kiều bị lừa đau đớn nhất là lần nàng bị Mã Giám Sinh lừa bán đến lầu xanh. Nó là bước ngoặt bẻ ngang cuộc đời Thuý Kiều sang hướng khác. ở lầu xanh, Thuý Kiều cũng không dễ dàng cam chịu. Luôn ý thức sâu sắc về nhân phẩm nên lúc nào Thuý Kiều cũng nghĩ về sự nhục nhã, ê chề. Sự chà đạp dã man của bọn buôn thịt bán người có lúc khiến Thuý Kiều tưởng chừng như đành rời xa nhân phẩm :
Thân lươn bao quản lấm đầu,
Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa.
Nhưng đó cũng chỉ là câu nói nhất thời trong lúc đớn đau.
Đoạn thơ Nỗi thương mình là đoạn tả tâm trạng Kiều sau khi đã chấp nhận phải sống cuộc sống của kiếp gái làng chơi. Đoạn thơ là tâm tư trăm mối của nàng Kiều tê tái vì cuộc sống ở lầu xanh ; buồn vì thương cha, nhớ mẹ, thương nhớ người tình ; đau vì kiếp đoạn trường phũ phàng, nghiệt ngã không biết kéo dài đến tận bao giờ :
Biết bao bướm lả ong lơi,
Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh.
Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,
Giật mình mình lại thương mình xót xa.
“Giật mình” mới là ý thức lần đầu, nhưng mình ngẫm lại/thương mình/xót xa thì lại khác. Tâm trạng thảng thốt của Kiều đã diễn ra rất nhiều lần. Nhịp thơ hai câu đầu đều nhưng day xiết. Mỗi từ dường như cũng trĩu nặng, trầm lắng. Sau phút giật mình ấy, câu thơ như để lại một khoảng trống của một tiếng thở dài.
Giật mình vì hiện tại nhục nhã, đớn đau, Thuý Kiều lần tưởng về quá khứ. Nhưng không thể được, hiện tại vẫn cứ níu giữ, vẫn cứ đối lập, vẫn bám riết một cách quyết liệt và gớm ghê. Quá khứ được nhắc đến trong câu thơ “Khi sao phong gấm rủ là” thì hiện tại lại ập đến trong ba câu tiếp đó :
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân ?
Quá khứ đẹp tươi nhưng đang bị nghiền nát bởi hiện tại phũ phàng. Đoạn thơ dùng nhiều từ sao vừa để nghi vấn, vừa luyến láy trong hình thức điệp, kết hợp với liên tiếp các thành ngữ chéo : dày gió dạn sương, bướm chán ong chường làm cho đoạn thơ có một giọng điệu riêng, âm hưởng đay nghiến thấm vào từng chữ, từng nhịp câu thơ.
Những câu thơ tiếp, Nguyễn Du tả cảnh cuộc sống ở lầu xanh. Đó là cuộc sống phong trần có cả cầm, kì, thi, hoạ :
Đòi phen nét vẽ câu thơ,
Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa.
Lại có cả phong, hoa, tuyết, nguyệt :
Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.
Thật mỉa mai, chua chát. Cuộc sống ở lầu xanh được trang hoàng bởi cái vẻ bề ngoài vô cùng trang nhã, có đủ thứ của cuộc sống đài các, cao sang. Nhưng dù có nguỵ trang khéo léo đến mức nào, nó cũng không thể che đậy nổi cái bản chất nhơ nhớp, bẩn thỉu bên trong. Đoạn thơ cũng đồng thời hướng vào tâm trạng Thuý Kiều. Sống cuộc sống lầu xanh, Kiều phải tách mình thành hai nửa. Một con người giả tạo, sống để vui gượng, ngẩn ngơ… và một con người thực, sống để xót xa mỗi lúc canh tàn. Nỗi sầu của lòng người lan toả sang cảnh vật. Nguyễn Du đã sáng tạo một câu thơ có giá trị khái quát “quy luật muôn đời” về sự kết hợp giữa ngoại cảnh và tâm cảnh :
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ ?
Vì cái lí lẽ đó mà cảnh vật ở những câu thơ trên vắng lạnh, u buồn và rợn ngợp. Nó góp phần khắc sâu hơn nỗi đau đớn của nàng Kiều khi phải sống trong cảnh nhục nhã ê chề.
Khi gió tựa hoa kề, khi lại cung cầm thi hoạ, lúc nào nỗi đau cũng dâng đầy trong lòng nàng. ý thức về nhân phẩm bị giày xéo đã khiến nàng không thể nguôi quên nỗi nhục ấy. Hai từ “đòi phen” được lặp lại trong tám câu thơ càng thể hiện rõ hơn tâm trạng ấy. Nỗi đau thường trực trong nàng, không giây phút nào nàng không bị dằn vặt, xót xa.
Đòi phen nét vẽ câu thơ,
Cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa.
Không chỉ những lúc phải tiếp khách làng chơi, cả những lúc tưởng thanh nhàn với những thú vui tao nhã, nàng vẫn không hết tủi nhục. Bởi dù sao, đó vẫn chỉ là cuộc sống ô nhục chốn lầu xanh. Vậy nên :
Vui là vui gượng kẻo là,
Ai tri âm đó, mặn mà với ai ?
Vui gượng để sống qua ngày, để được yên thân với lũ đầu trâu mặt ngựa. Nàng đã từng cố gắng để thoát ra khỏi cuộc sống ấy nhưng không được. Chết cũng không thể bởi Đạm Tiên đã báo mộng, kiếp đoạ đày của nàng chưa thể chấm dứt.
Những từ ngữ như “khi sao”, “giờ sao”, “mặc người”, “đòi phen”, “cảnh nào” được đặt ở đầu các câu thơ đã thể hiện rõ tính chất than thân của đoạn thơ, đó là “nỗi thương mình”. Những tâm trạng ấy của nàng Kiều làm toát lên vẻ đẹp trong sáng trong tâm hồn nàng. Chính vì thế mà dù sau mười lăm năm lưu lạc với hai lần bị đẩy vào lầu xanh, nàng vẫn được chàng Kim trân trọng như thuở nào :
Như nàng lấy hiếu làm trinh,
Bụi nào cho đục được mình ấy vay ?
ở đoạn trích này, dù đau đớn, xót xa, lời an ủi đối với Thuý Kiều vẫn chỉ là vô vọng. “Nỗi thương mình” trong trường hợp ấy còn nhân lên đến nhiều lần. Cũng như ở đoạn Trao duyên, hay đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích, đoạn thơ này vẫn tiếp tục là sự cảm thông sâu sắc của Nguyễn Du đối với Thuý Kiều ; đồng thời nó cũng là sự thành công tuyệt vời của tác giả trong nghệ thuật miêu tả nội tâm.
III - Liên hệ
Khó khăn lớn nhất đối với Nguyễn Du là đã bắt lòng thuỷ chung của Kiều phải trải qua một thử thách bi đát : Kiều phải làm đĩ. Nói gì giữ gìn danh tiết với Kim Trọng, ngay cái nhân cách tối thiểu của người đàn bà trong xã hội cũ Kiều làm thế nào giữ cho khỏi bị mai một được ? Giản đơn nhất là để cho Kiều chết. Nhưng chết là hết chuyện. Nguyễn Du lại để cho Kiều sống lại. Nhưng sống lại, có nghĩa là chấp nhận lấy số phận nhục nhã của mình. Trong các truyện thơ đương thời, dễ có Kiều là làm việc đó. Nguyễn Du không nhằm nặn ra một Thuý Kiều để làm rạng danh cho một nguyên lí đạo đức trừu tượng nào đó. Kiều vốn là con người bình thường. Nhưng chính con người bình thường này đã có lúc hành động như một liệt nữ, đã nêu tấm gương cao cả và sự hi sinh không bờ bến. Không phải cái tà dâm đã dắt Kiều đến lầu xanh của Tú Bà, mà chính là cái đạo lí làm người, chính tấm lòng hiếu nghĩa đã biến Kiều thành miếng mồi ngon của bọn bán thịt buôn người. Khó khăn đối với Nguyễn Du là để Kiều phải “Sống làm vợ khắp người ta” mà vẫn giữ được nhân phẩm của mình. Kiều rất có ý thức về sự sa đoạ mà mình đã rơi vào :
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân…
Đối với lễ giáo phong kiến, giản đơn nhất là buộc tội Kiều, cho những kẻ làm đĩ như Kiều là mất nết, là tà dâm, là vô loại. Nhưng không có lời lẽ nào để biện hộ cho Kiều hùng hồn hơn là những nỗi đau đớn, dằn vặt của Kiều :
Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,
Giật mình mình lại thương mình xót xa.
Với nỗi xót xa dường ấy, với ý thức như thế về thân phận của mình, Kiều cũng đủ để cho không ai có quyền gạt mình ra khỏi vòng nhân loại. Kiều không thôi mơ ước trở lại cuộc sống trong sạch, được trở lại với quê hương, với gia đình, với người yêu. Những lần “nhớ nhà” của Kiều đều có sức vang dội sâu xa và người đọc không ai có thể khinh bỉ được Kiều.
soanbailop6.com