24/05/2018, 19:17

Đầu tư phát triển kinh tế Việt Nam -chặn đường 10 năm đổi mới

Xoá bỏ bao cấp đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách và da dạng hoá nguồn vốn đầu tư phát triển. Trước năm 1990, nguồn vốn đầu tư phát triển chủ yếu dựa vào ngân sách và các khoản vay vốn từ khối Liên Xô, Đông Âu cũ và đưa vào ...

Xoá bỏ bao cấp đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách và da dạng hoá nguồn vốn đầu tư phát triển.

Trước năm 1990, nguồn vốn đầu tư phát triển chủ yếu dựa vào ngân sách và các khoản vay vốn từ khối Liên Xô, Đông Âu cũ và đưa vào ngân sách để đầu tư cho các ngành kinh tế quốc dân từ việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội đến các ngành sản xuất kinh doanh.

Trước yêu cầu phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu của nền kinh tế và chủ trương phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, nguồn vốn trên không thể đáp ứng nổi yêu cầu phát triển. Trước tình hình đó, từ năm 1990 thực hiện cơ chế xoá bao cấp trong đầu tư phát triển bằng vốn ngân sách đi đôi với việc huy động nhiều nguồn vốn khác nhau cho đầu tư nhằm mục tiêu sau đây:

+Huy động nhiều nguồn vốn cho đầu tư phát triển.

+Sử dụng có hiệu qủa hơn nguồn vốn ngân sách.

+Khuyến khích các cơ sở kinh doanh nhà nước hoạt động có hiệu quả, kinh doanh có lợi nhuận để tích luỹ và đưa vào đầu tư và chịu trách nhiệm về kết quả đầu tư.

Các nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội được huy động đa dạng, bao gồm : (1) nguồn vốn Ngân sách Nhà Nước, (2) nguồn vốn tín dụng Nhà Nước, (3) vốn đầu tư của doanh nghiệp Nhà Nước, (4) nguồn vốn đầu tư của dân cư và tư nhân, (5) nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Đổi mới trong cơ chế quản lý và điều hành đầu tư XDCB.

Nhằm huy động nhiều hơn các nguồn lực của tất cả các thành phần kinh tế và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn trong 10 năm qua Việt Nam đã sửa đổi, bổ sung nhiều cơ chế chính sách trong lĩnh vực này.

Nhiều năm trước đây nguồn vốn ngân sách nhà nước đóng vai trò quan trọng và chủ yếu trong đầu tư phát triển, từ năm 1990 chúng ta đã chuyển dần phương thức đầu tư, ngân sách nhà nước không bao cấp cho các dự án sản xuất kinh doanh mà chỉ tập trung cho các dự án hạ tầnh kinh tế như giao thông, thuỷ lợi, hạ tầng nông nghiệp, các cơ sở sản xuất giống cây và giống con, hạ tầng lâm nghiệp; dành phần vốn thoả đáng cho các công trình kết cấu xã hội như giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, y tế xã hội. Nhà nước cũng khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn tín dụng đầu tư với việc ưu đãi thông qua lãi suất vay, điều kiện vay trả, thời gian vay và trả nợ, các doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm về mặt tài chính, vay và trả nợ đúng hạn, tự chịu trách nhiệm về hiệu quả đầu tư. Bên cạnh đó nhà nước cũng có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp tự huy dộng thêm các nguồn lực để tham gia đầu tư chiều sâu, nhà nước cho phép doanh nghiệp giữ lại phần khấu hao cơ bản tài sản cố định có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước để đầu tư trở lại chính doanh nghiệp mình cùng các khoản lợi nhuận sau thuế và các khoản huy đông khác nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Phần tiết kiệm trong dân cư cũng được huy động đáng kể. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài theo thời gian cũng tăng lên, ban đầu chỉ tập trung trong lĩnh vực du lịch nhà ở sau đó tập trung cho lĩnh vực sản xuất là chủ yếu đến nay nguồn vốn này tập trung 70% trong lĩnh vực công nghiệp.

Tình hình huy động vốn đầu tư phát triển.

Trong 5 năm 1991-1995 vốn đầu tư phát triển thực hiện 229,3 nghìn tỷ đồng (mặt bằng giá năm 1995) tương đương khoảng 20,8 tỷ đôla bằng 3,5 lần vốn đầu tư phát triển thời kỳ 1986-1990, tốc độ tăng vốn đầu tư bình quân hàng năm là 21,9%, trong đó vốn Ngân sách Nhà nước tăng bình quân 26,3%; vốn tín dụng đầu tư tăng 7,1%; vốn đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước tăng 25,2%; vốn đầu tư của dân và tư nhân tăng 17,7%; vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài tăng 54,8%. Trong 5 năm 1996-2000 tốc độ tăng đầu tư phát triển có xu hướng chậm, tổng vốn đầu tư phát triển ước thực hiện khoảng 397 nghìn tỷ đồng tương đương 31,6 tỷ đôla, bằng 1,74 lần thực hiện thời kỳ 1991-1995, tốc độ tăng bình quân là 6,4%, trong đó vốn ngân sách nhà nước tăng bình quân 6,4%, vốn tín dụng đầu tư tăng 42% (do có nguồn vốn ODA cho vay lại khoảng 3 tỷ đôla), vốn đầu tư doanh nghiệp nhà nước tăng 20,2%, vốn đầu tư của dân và tư nhân tăng 1,4%, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm 7,2%. Tính chung cho cả 10 năm 1991-2000 vốn đầu tư toàn bộ nền kinh tế đã được thực hiện khoảng 626 nghìn tỷ đồng, tăng bình quân hàng năm 17,2%, trong đó vốn ngân sách nhà nước tăng 14,7%, vốn tín dụng đầu tư tăng 25,3%, vốn doanh nghiệp nhà nước tăng 22,7%, vốn đầu tư của dân và tư nhân tăng 9,3%, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 19,9%.

Tình hình cụ thể về cơ cấu các nguồn vốn như sau: đơn vị: %

1991-1995 1995-2000 1991-2000
Tổng số 100 100 100
Vốn ngân sách nhà nước 23.9 21.93 22.65
Vốn tín dụng đầu tư 6.21 15.32 11.98
Vốn của các DNNN 9.7 16.15 13.78
Vốn của dân cư và tư nhân 35.42 22.8 27.43
Vốn đầu tư trực tiếp NN 24.78 23.81 24.16

Nguồn : Vụ tổng hợp kinh tế quốc dân

Cơ cấu vốn đầu tư phát triển.

Cơ cấu vốn theo ngành.

Cơ cấu vốn đầu tư phát triển theo ngành kinh tế đã dịch chuyển theo hướng ưu tiên cho nông nghiệp, nông thôn, phát triển hạ tầng cơ sở và lĩnh vực xã hội, thể hiện ở các mặt:

Vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp và nông thôn 10 năm qua (1991-2000) ước đạt 64,78 nghìn tỷ đồng (mặt bằng giá năm 1995), tương đương 5,9 tỷ đôla, chiếm tỷ trọng là 10,3%, trong đó 5 năm 1991-1995 là 8,5%, 5 năm 1996-2000 là 11,42%...Tốc độ tăng vốn đầu tư bình quân hằng năm 20,8%, trong đó 5 năm 1991-1995 là 19,8%, 5 năm 1996-2000 là 21,8%.

Vốn đầu tư phát triển cho các ngành công nghiệp thời kỳ 1991-2000 khoảng 261 nghìn tỷ đồng (mặt bằng giá năm 1995) tương đương 23,7 tỷ đôla, chiếm 41,81% vốn đầu tư trong 10 năm, trong đó 5 năm 1991-1995 chiếm 38,45%, 5 năm 1996-2000 chiếm 43,76%, tốc độ tăng bình quân hằng năm là 25,1%, trong đó 5 năm 1991-1995 tăng bình quân 41,1%, 5 năm 1996-2000 tăng bình quân 10,9%. Trong tổng vốn đầu tư ngành công nghiệp, cho các ngành công nghiệp chế biến khoảng 30%.

Vốn đầu tư phát triển hạ tầng giao thông vận tải và thông tin liên lạc cả thời kì 1991-2000 là 94,6 nghìn tỷ đồng (mặt bằng giá năm 1995) tương đương khoảng 94,6 tỷ đôla, chiếm 15,11% tổng vốn đầu tư phát triển 10 năm, trong đó 5 năm 1991-1995 là 14%, 5 năm 1996-2000 là 15,76%, tốc độ tăng bình quân hằng năm là 23,1%, trong đó 5 năm 1991-1995 là 41,6%, 5 năm 1996-2000 là 7%.

Vốn đầu tư cho phát triển lĩnh vực khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo, y tế, văn hoá trong 10 năm là 29,7 nghìn tỷ đồng chiếm 4,74% tổng vốn đầu tư phát triển (mặt bằng giá năm 1995), tương đương 2,7 tỷ đôla, chiếm tỷ trọng 4,74% tổng vốn đầu tư phát triển, tốc độ tăng vốn đầu tư bình quân trong 10 năm là 19,1%.

Cơ cấu vốn đầu tư thực hiện theo ngành như sau: đơn vị: %

1991-1995 1995-2000 1991-2000
Tổng số 100 100 100
Nông nghiệp, Thuỷ lợi,Lâm nghiệp,Thuỷ sản. 8.5 11.42 10.35
Công nghiệp 38.45 43.76 41.81
Giao thông, Bưu điện 13.99 15.76 15.11
Khoa học Công nghệ 0.24 0.39 0.33
Giáo dục đào tạo 1.71 2.10 1.96
Y tế xã hội 0.87 1.52 1.28
Văn hoá thể thao 1.09 1.2 1.17

Nguồn :Vụ tổng hợp kinh tế quốc dân

Cơ cấu đầu tư theo vùng.

Trong 10 năm qua, đặc biệt là 5 năm trở lại đây chúng ta đã cố gắng để tập trung đầu tư phát triển các vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân về điều kiện tự nhiên, xã hội, cơ sở hạ tầng và các yếu tố môi trường đầu tư khác nhau, việc chuyển dịch cơ cấu vùng chưa thực sự mạnh mẽ.

Hai vùng kinh tế trọng điểm của cả nước (đồng bằng sông Hồng và miền Đông Nam Bộ) chiếm 54,1% vốn đầu tư phát triển thời kỳ 10 năm. Tốc độ tăng vốn đầu tư bình quân hàng năm nhanh nhất là ở miền núi phía Bắc 19% năm, các vùng khác khoảng từ 15 đến 17%.

Cơ cấu thực hiện vốn đầu tư theo vùng 10 năm qua như sau: đơn vị: %

1991-1995 1995-2000 1991-2000
Các tỉnh miền núi phía Bắc 7.3 7.6 7.5
Vùng đồng bằng sông Hồng 26.9 25.5 26
Vùng Bắc Trung Bộ 8.7 7.7 8.1
Vùng duyên hải miền Trung 11.9 11.6 11.7
Vùng Tây Nguyên 4.4 4.9 4.7
Vùng Đông Nam Bộ 28.3 28 28.1
Vùng đồng bằng sông Cửu Long 12.4 14.8 14

Nguồn : Vụ tổng hợp kinh tế quốc dân

Trong 10 năm qua nhiều công trình quan trọng của nền kinh tế đã được triển khai và hoàn thành, đưa vào sử dụng góp phần tăng năng lực sản xuất của nhiều ngành kinh tế, kể cả cơ sở hạ tầng và các sản phẩm: công suất phát điện 1.770 MW, đường dây tải điện các loại 28 nghìn km, công suất sản xuất xi măng tăng 5 triệu tấn, công suất các nhà máy sản xuất phân bón tăng 650 nghìn tấn, năng lực khai thác dầu thô tăng 13,8 triệu tấn, chế biến đường 21 nghìn tấn mía/ngày, thép 1,53 triệu tấn, cấp nước sạch 1,2 triệu m3/ngày đêm, diện tích được tưới nước và tạo nguồn nước cho 82 vạn ha, tiêu úng 43,4 vạn ha, trồng cao su 35 vạn ha, trồng cà phê 10 vạn ha, trồng chè 9000 ha, trồng rừng mới 1 triệu ha, nâng cấp đường bộ các loại 4.500km, khách sạn 9.600 giường, bệnh viện 4,3 vạn giường.

Nhờ kết quả của đầu tư phát triển, đã hình thành được hệ thống thuỷ lợi khá hoàn chỉnh phục vụ ngày càng tốt hơn sự nghiệp phát triển kinh tế nói chung và nông nghiệp nói riêng. Đến nay các công trình thuỷ lợi đã có thể tưới cho 3,2 triệu ha đất canh tác, tiêu úng cho 1,5 triệu ha đất canh tác, ngăn mặn cho 70 vạn ha...Năm 1999, đã đảm bảo tưới cho 6,3 triệu ha gieo trồng lúa, 1triệu ha màu và cây công nghiệp. Hầu hết các công trình thuỷ lợi đều phát huy hiệu quả ở các mức độ khác nhau. Các công trình thuỷ lợi ở Đồng bằng sông Cửu Long đã tạo điều kiện thâm canh, tăng vụ, chuyển từ vụ lúa hè nổi năng suất thấp sang 2 vụ đông xuân và hè thu có năng suất cao, ăn chắc. Diện tích lúa đông xuân ở Đồng bănng sông Cửu Long tăng từ 820 ngàn ha năm 1991 lên 1,35 triệu ha năm 1998, diện tích lúa hè thu tương ứng tăng từ 1,05 triệu ha lên 1,8 triệu ha. Các công trình thuỷ lợi ở miền Trung và Tây Nguyên đã góp phần làm thay đổi bộ mặt kinh tế xã hội của vùng.

Nhiều năm trở lại đây chúng ta đã xây dựng và hình thành được hệ thống giống cây và con cho phát triển nông, lâm, ngư nghiệp. Năng suất cây trồng vật nuôi hiện nay là có sự đóng góp đáng kể của lĩnh vực này. Chương trình 327 trước đây và dự án trồng 5 triệu ha rừng hiện nay đã và đang thu được những kết quả đáng khích lệ.

Trong lĩnh vực công nghiệp cũng đã có những đóng góp đáng kể của đầu tư phát triển. Giá trị sản xuất công nghiệp vẫn giữ được mức tăng trưởng cao, ổn định liên tục tăng bình quân hàng năm từ 10 đến 13%. Các sản phẩm công nghiệp quan trọng có tốc độ tăng trưởng khá, đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế, thay thế được hàng nhập khẩu, tiết kiệm ngoại tệ và tăng kim ngạch xuất khẩu. Sản lượng dầu thô khai thác năm 2000 gấp hơn 6 lần so với năm 1990; sản lượng điện năm 2000 gấp 3,6 lần năm 1990; thép và xi măng năm 2000 cũng gấp nhiều lần so với năm 1990. Đóng góp của công nghiệp cho nền kinh tế quốc dân có bước được cải thiện đáng kể thể hiện qua tỷ trọng công nghiệp trong GDP. Năm 2000, tỷ trọng ngành công nghiệp trong GDP chiếm 34%, so với 20,7% năm 1990 tăng 13%. Đã bắt đầu có sự chuyển dịch hợp lý hơn cơ cấu trong ngành công nghiệp, tăng dần tỷ trọng công nghiệp chế biến. Đã phát triển một số vùng kinh tế trọng điểm mà vai trò công nghiệp đáng quan tâm. Cơ cấu thành phần trong ngành công nghiệp tuy có sự phát triển chậm, nhưng đúng hướng. Trình độ công nghệ được nâng cao, đã tiếp nhận được với công nghệ mới, hiện đại, nhiều sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao, nền kinh tế đã có nhiều sản phẩm mới. Công nghiệp đã bắt đầu có sự gắn bó với nông nghiệp, tạo điều kiện cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá sản xuất nông nghiệp, tăng đáng kể năng suất lao động và chất lượng sản phẩm.

Cơ sở hạ tầng phát triển sâu rộng và toàn diện, hệ thống giao thông được cải thiện đáng kể. Các tuyến giao thông chính quốc gia, trục chính của các khu kinh tế phát triển đã làm thay đổi nhiều mặt trong phát triển kinh tế và đời sống xã hội. Dịch vụ vận tải đã cơ bản đáp ứng được nhu cầu lưu thông hàng hoá và đi lại của nhân dân. Trong nhiều năm, bằng các nguồn lực trong và ngoài nước, đã tập trung đáng kể cho trục chính Bắc Nam, tuyến Đông -Đông Bắc và các trục chính của ba vùng kinh tế trọng điểm, các đô thị và trung tâm kinh tế lớn.

Trong 10 năm qua về đường bộ đã làm mới được hơn 2440 km, nâng cấp được 26.070km, làm mới và khôi phục trên 26.000 mét cầu; về đường sắt nâng cấp được 45km, làm mới và khôi phục 5.830 mét cầu; làm mới được gần 2.300 mét cầu cảng; nâng cấp nhiều sân bay. Ngành bưu chính viễn thông đã đạt được bước nhảy vọt về công nghệ và phạm vi phục vụ, tính đến năm 2000, bình quân cả nước đạt được 4 máy điện thoại trên 100 dân.

Hệ thống giáo dục cũng có những bước tiến đáng kể, qui mô đào tạo lớn hơn nhiều so với trước kia. Bước đầu hình thành 2 trung tâm y tế chuyên sâu ở phía Bắc và phía Nam. Đầu tư chuyên sâu cho các bệnh viện đầu ngành, bệnh viện chuyên ngành đồng thời với việc củng cố hệ thống y tế cơ sở, chú trọng đầu tư ban đầu cho bệnh viện tuyến huyện. Gần đây hầu hết các bệnh viện tuyến tỉnh đã được xây lại, đầu tư chiều sâu, đổi mới trang thiết bị.

Huy động chưa hết tiềm năng và khả năng của nền kinh tế.

Đối với nguồn vốn trong nước: Trong khi nguồn tích luỹ trong nước còn thấp, nhưng việc huy động cho đầu tư phát triển lại chưa tương xứng, dặc biệt là nguồn vốn trong khu vực dân cư mới huy động khoảng trên 50% số tiết kiệm có được. Việc huy động vốn từ các doanh nghiệp đặc biệt là khối doanh nghiệp Nhà nước chưa cao, nhà xưởng, đất đai, tài sản của công còn lãng phí nhiều, chưa đưa được vào đầu tư.

Đối vỡi nguồn vốn ODA: Thực hiện giải ngân chậm, còn nhiều vướng mắc. Cộng đồng các nhà tài trợ đã cam kết viện trợ và cho ta vay với các điều kiện ưu đãi là 15,14 tỷ USD nhưng giải ngân chậm. Tính đến hết năm 1999 mới giải ngân được 6,47 tỷ USD, đạt 42,7% so với tổng nguồn đã cam kết do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ quan chiếm phần lớn.

Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có chiều hướng giảm. Trong những năm đầu thời kỳ chiến lược, nguồn vốn FDI đã chiếm 30% tổng vốn đầu tư xã hội. Nhưng một số năm gần đây, nguồn vốn này đã giảm đáng kể về cấp giấy phép và thực hiện. Tính đến hết năm 1999 tổng số vốn đã cấp giấy phép có hiệu lực khoảng 35,5 tỷ USD, thực hiện khoảng 15,5 tỷ USD bằng 43,7%. Riêng năm 1999, cam kết mới chỉ đạt được 2,12 tỷ USD và vốn thực hiện chỉ đạt 1.485 triệu USD, bằng khoảng 50% của năm đạt cao nhất.

Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý.

Trong nông nghiệp chúng ta quá chú trọng vào thuỷ lợi (chiếm hơn 70% vốn đầu tư của ngành) và một số yếu tố khác nhằm đạt mục tiêu tăng sản lượng và lương thực, ít chú ý đầu tư nâng cao chất lượng phát triển nông nghiệp như khoa học công nghệ, giống cây con, công nghệ chế biến nông sản, mạng lưới cơ sở hạ tầng nông nghiệp. Chủ trương chung là công nghiệp hoá nông nghiệp nhưng thực tế chưa đầu tư theo đúng hướng này.

Đầu tư cho công nghiệp vẫn mang tính chắp vá, giải quyết những khó khăn trước mắt, cụ thể, không thể hiện được chiến lược phát triển của ngành. Do vậy đến nay trình độ công nghiệp nói chung là lạc hậu. Tỷ trọng đầu tư cho công nghiệp còn thấp, chỉ trên dưới 40% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, chưa đủ để phát triển ngành. Cơ cấu đầu tư của các ngành công nghiệp cũng như tỷ trọng vốn tham gia của các thành phần kinh tế chưa thực sự hướng tới một nền kinh tế thị trường, hoà nhập và cạnh tranh quyết liệt. Hiện tượng đầu tư theo phong trào hoặc theo lợi nhuận trước mắt rất phổ biến và kéo dài làm giảm hiệu quả đầu tư, gây khó khăn cho nền kinh tế trong việc xử lí hiệu quả. Do dự báo không chính xác dẫn đến việc đầu tư ồ ạt một số ngành dẫn đến việc cung vượt qua cầu, điển hình là sản xuất sắt, thép, xi măng, ô tô, rượu bia, nước ngọt, phân bón. Chưa chú trọng đầu tư phát triển ngành cơ khí, công nghiệp đóng tàu, công nghiệp chế tạo, đặc biệt là chế tạo máy công cụ, máy nông nghiệp, máy chế biến nông sản.

Mặt khác chuyển dần cơ cấu đầu tư theo hướng phát triển các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu mà không ưu tiên đầu tư các mặt hàng xuất khẩu, mức độ bảo hộ có xu hướng gia tăng. Việc lựa chọn một số ngành công nghiệp điện tử, công nghệ sinh học, vật liệu mới vừa có nhu cầu vốn đầu tư cao, vừa có tỷ suất lời thấp là một trong những sự lựa chọn chưa thật hợp lý.

Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng chưa tập trung vào việc trực tiếp phục vụ sản xuất, xuất khẩu. Đầu tư không đồng bộ là tình trạng phổ biến trong lĩnh vực giao thông và hạ tầng nói chung.

Một trong những vấn đề chưa được trong cơ cấu đầu tư là việc kết hợp hài hoà về qui mô các dự án. Có lĩnh vực thì thiên về các dự án qui mô lớn, vốn nhiều, đầu tư nhiều trong năm. Ngược lại, một số Bộ ngành và địa phương lại muốn phân nhỏ những dự án để điều hành cho phù hợp.

Sử dụng vốn đầu tư chưa hiệu quả.

Điều đáng quan tâm là trong thời gian vừa qua đầu tư chưa tập trung và bám sát vào các mục tiêu quan trọng của nền kinh tế. Cùng với việc phân cấp mạnh trong đầu tư, vấn đề dàn trải, kéo dài tiến độ đã xảy ra hầu hết ở khắp các Bộ ngành địa phương. Riêng nguồn vốn ngân sách hàng năm cũng đã triển khai hàng nghìn dự án lớn nhỏ. Mặc dù chúng ta đã đưa ra nhiều biện phát nhằm hạn chế đầu tư dàn trải, nhưng mức độ giảm chưa được nhiều và việc triển khai của các bộ ngành vẫn chưa được nghiêm túc. Năm 1997 có khoảng 6000 dự án, năm 1998 5000 dự án, năm1999 còn gần 4000 dự án được đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách. Điều đáng chú ý là các dự án đầu tư kéo dài hơn so với tiến độ được phê duyệt.

Do chất lượng các qui hoạch không cao, do dự báo không chính xác, nên kế hoạch 5 năm và hàng năm không thể hiện được ý đồ chiến lược và phù hợp với định hướng chung. mặc dù nhiều qui hoạch được duyệt nhưng nội dung chưa đủ cụ thể để triển khai, hơn nữa trong từng thời kỳ chưa bám sát các qui hoạch này để bố trí vốn mà thường phải chạy theo các vấn đề cấp bách trước mắt. Do dự báo thị trường chưa được chính xác nên trong quá trình đầu tư phải thay đổi nhiều lần về chủ trương, thậm chí còn phải khắc phục hậu quả rất khó khăn.

0