23/05/2018, 14:41

Đặc điểm tiêu hóa ở ruột gà

Trong quá trình tiêu hóa ở ruột gà thì quá trình cơ bản phân tích men từng bước các chất dinh dưỡng đều được tiến hành chủ yếu ở ruột non của gà . – Dịch ruột gà lỏng, đục, kiềm tính, pH = 7,42 với độ đặc 1,0076 và chứa các men proteolyse, aminolytic, lypolitic và enterokinaza. – Dịch tuyến ...

Trong quá trình tiêu hóa ở ruột gà thì quá trình cơ bản phân tích men từng bước các chất dinh dưỡng đều được tiến hành chủ yếu ở ruột non của gà .

– Dịch ruột gà lỏng, đục, kiềm tính, pH = 7,42 với độ đặc 1,0076 và chứa các men proteolyse, aminolytic, lypolitic và enterokinaza.

– Dịch tuyến tụy – pancreatic – lỏng, không màu, hơi mặn, có phản ứng hơi toan hoặc hơi kiềm (pH = 6 ở gà, 7,2-7,5 ở gia cầm khác). Dịch này có men tripsin, carboxi peptidaza, amilaza, mantaza và lipaza. Trong chất khô của dịch nầy có các axit amin, lipit vầ các chất khoáng – CaCl2, NaCl, NaHC03

Tripsin được tiết ra ở dạng không hoạt hoá là tripsinogen và dưới tác động của men dịch ruột enterokinaza trỏ thành men đã hoạt hoá có tác dụng phân giải protein thức ăn thành các axit amin.

Men proteolise khác là carboxipeptidaza được tripsin hoạt hoá cũng có tính chất nảy.

Men amilaza và mantaza phân giải các polysacarit thành các monosacarit glucoza.

Men lipaza được mật hoạt hoá phân giải lipit ra glyxerin và axit béo.

Gà 1 năm tuổi, lúc bình thường tuyến tụy tiết ra 0,4 – 0,8ml/giờ, sau khi cho ăn 5-10 phút lượng tiết tăng gấp 3-4 lần, giữ cho đến giờ thứ ba, rồi giảm dần. Thành phần thức ăn có ảnh hưỏng đến các quá trình tiết dịch men của tụy: giàu protein nâng hoạt tính proteolise lên 60%, giàu lipit tăng hoạt tính của lipolytic v.v…

– Mật của gia cầm được tiết liên tục từ túi mật vào đường ruột, lỏng, màu sáng hoặc xanh đậm, tính kiềm, pH = 7,3-8,5. Mật chứa axit mật (600-2000mg/%), các chất sắc tố (70mg/%), cholesteron (115mg/%), còn có gluxit, các axit béo và các lipit trung tính, musin, khoáng chất và các sản phẩm trao đổi chất có chứa nitơ, có men amilaza.

Mật có vai trò đa dạng trong quá trình tiêu hoá của gia cầm, gây nên nhũ tương mỡ, hoạt hoá các men tiêu hoá của dịch tụy, kích thích làm tăng nhu động ruột, tạo điều kiện hấp thu các chất dinh dưỡng đã được tiêu hoá, đặc biệt là các axit béo mà từ chúng tạo thành các hợp chất dễ hoà tan. Mật ngăn cản việc gây nên vết loét trên màng nhầy của dạ dày cơ và có tính diệt khuẩn.

Ớ ruột, gluxit được phân giải thành các monosacarit do men amilaza của dịch tụy và phần nào của mật và dịch ruột.

Ớ manh tràng, protit được phân giải đến pepton và polypeptit dưới tác động của axit chlohydric và các men dịch dạ dày như pepsin và chimusin. Tiếp đó các men proteolyse của dịch tụy phân giải thành axit amin trong hồi tràng và tá tràng.

Ở manh tràng, lipit được tạo thành các axit béo nhờ tác động của mật, dịch tụy và hoàn thành ở tá tràng nhờ monoglyxerit, glyxerin.

Ớ manh tràng các vi khuẩn tổng hợp vitamin nhóm B. Như vậy, sự tiêu hoá protit, gluxit, lipit tiến hành ở manh tràng nhờ các men đi vào cùng chymus từ ruột non và hệ vi khuẩn thâm nhập từ khi gà con tiếp nhận thức ăn lần đầu như trực khuẩn ruột, streptococci, lactobacilli v.v…

Manh tràng là nơi duy nhất phân giải một lượng nhỏ chất xơ (10-30%) bằng các men do vi khuẩn tiết ra. Khi cắt bỏ manh tràng, chất xơ hoàn toàn không tiêu hoá được ở bộ máy tiêu hoá gia cầm.

Ớ gà, hấp thu các chất dinh dưỡng từ bộ máy tiêu hoá vào máu và lympho đều tiến hành chủ yếu ở ruột non, bao gồm các sản phẩm phân giải protit, lipit, gluxit, khoáng, vitamin và nước.

+ Hấp thu các chất chứa nitơ đều dưới dạng các axit amin, cường độ hấp thu không phụ thuộc vào khối lượng phân tử của chúng.

+ Hấp thu gluxit ở dạng đường đơn monosacarit và đường đôi disaccarit. Gà con 14 ngày tuổi đã có thể hấp thu các chất phân giải gluxit trên, trong đó glucoza và galactoza được hấp thu nhanh hơn nhiều so với fructoza và manoza.

+ Hấp thu lipit: dưới tác động của men lipaza ở ruột, lipit được phân giải thành glyxerin và các axit béo được hấp thu trong phần mỏng của ruột.

+ Hấp thu nước ở ruột non và ruột già. Nhu cầu nước cho gà thu nhập cùng với thức ăn đến 30-50% và nước uống được hấp thu phụ thuộc vào tỷ lệ tương quan của áp suất thẩm thấu trong ruột, trong máu và các mô. Gà có vòng tuần hoàn nước: dạ dày – diều, thể “hiện một phần nước đã được hấp thu từ ruột bài ra từ máu đi ngược lại vào diều làm cho diều căng phồng.

+ Hấp thu khoáng ở khắp ruột non, còn ở diều, dạ dày, ruột già là không đáng kể.

Muối chlorua natri dễ thấm hút trong ruột gà con, hễ dư thừa dễ bị nhiễm độc và làm rối loạn phát triển.

Các muối chlorua natri, kali hoà tan vào chymus được hấp thu chọn lọc với tốc độ khác nhau phụ thuộc nhu cầu của cơ thể… Mức độ hấp thu canxi phụ thuộc lượng canxi trong máu, sự thiếu mật và vitamin D3 trong ruột. Lượng photpho quá cao sẽ làm ngưng hấp thu canxi, thiếu vitamin D dẫn đến hấp thu canxi kém. Gà bị còi xương.

Tuổi và trạng thái sinh lý của gà ảnh hưởng đến tỷ lệ hấp thu canxi: gà 4 tháng tuổi – 25%, gà 6-12 tháng tuổi – 50-60%, 14 tháng tuổi, – 32%.

Hấp thu photpho phụ thuộc vào tỷ lệ Ca/P và nhu cầu của cơ thể gà.

+ Hấp thu vitamin

Vitamin được hấp thu ở manh tràng. Gà con hấp thu nhanh hơn, chỉ 1 – 1g30 sau khi cho ăn đã có vitamin A trong máu. Gà mái đẻ hấp thu tối đa vitamin A 12 giờ sau khi cho ăn, được tìm thấy trong biểu mô của màng nhầy ở dạng ete của vitamin.

0