24/05/2018, 19:15

Đặc điểm huy động vốn và sản xuất vốn tín dụng ngân hàng đối với hộ sản xuất

Cũng như các doanh nghiệp khác, ngân hàng muốn hoạt động trước hết phải có vốn. Nhưng do những khác biệt trong công tác tổ chức cũng như vai trò của ngân hàng trong nền kinh tế mà nhu cầu về vốn của ngân hàng rất lớn. Nhu cầu về vốn của ngân ...

Cũng như các doanh nghiệp khác, ngân hàng muốn hoạt động trước hết phải có vốn. Nhưng do những khác biệt trong công tác tổ chức cũng như vai trò của ngân hàng trong nền kinh tế mà nhu cầu về vốn của ngân hàng rất lớn. Nhu cầu về vốn của ngân hàng được đáp ứng từ những nguồn vốn sau:

Vốn tự có

Nguồn vốn tự có của ngân hàng được hình thành từ hai bộ phận:

* Vốn điều lệ: Là số vốn bán đầu của ngân hàng, là tiêu chuẩn để một ngân hàng thành lập và đi vào hoạt động: Về quy mô thì vốn điều lệ phải lớn hơn hoặc bằng vốn pháp định (vốn do Nhà nước quy định). Tuy nhiên với mỗi loại hình hoạt động khác nhau của từng ngân hàng thì vốn điều lệ cũng có nguồn hình thành khác nhau. Vốn điều lệ nói lên sức mạnh và khả năng hoạt động ban đầu của một ngân hàng.

* Vốn tự có bổ sung: Được hình thành trong quá trình hoạt động của ngân hàng thông qua việc trích lập các quỹ. Hàng năm ngân hàng căn cứ vào kết quả hoạt động kinh doanh của mình mà trích một phần lợi nhuận bổ sung vào nguồn vốn tự có của ngân hàng.

Nguồn vốn vay từ trung ương.

Ngân hàng trung ương cấp tín dụng cho các ngân hàng thương mại dưới nhiều hình thức như: cho vay, mua bán, chiết khấu, tái chiết khấu đối với các giấy tờ có giá trị của ngân hàng thương mại. Vốn hình thành từ nguồn này đảm bảo cho khả năng thanh toán của ngân hàng thương mại.

Nguồn vốn điều hoà trong hệ thống.

Các ngân hàng thương mại có nhiều chi nhánh nằm trên các địa bàn khác nhau nên luôn luôn xuất hiện tình trạng thừa vốn hoặc thiếu vốn đối với các chi nhánh trong cùng một hệ thống. Sở dĩ xuất hiện tình trạng này là do trên mỗi địa bàn có những điều kiện kinh tế xã hội khác nhau, do đó nó tác động đến nguồn vốn và khả năng sử dụng của từng chi nhánh.

Nguồn vốn huy động.

Đây là nguồn vốn quan trọng nhất của một ngân hàng thương mại. Nguồn vốn huy động có nhiều hình thức khác nhau.

Các khoản tiền gửi của khách hàng.

Tiền gửi tiết kiệm của dân cư:

Đây là một trong những khoản tiền lớn gửi ngân hàng.

Việc phân chia các khoản tiền gửi tiết kiệm của dân cư có thể theo nhiều tiêu thức khác nhau, thông thường là theo thời gian:

* Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.

Đây là loại tiền gửi mà khách hàng có thể rút tiền bất cứ lúc nào. Do thời hạn rút tiền không được ấn định trước nên khách hàng phải chấp nhận một tỷ lệ lãi suất thấp hơn so với hình thức tiền gửi có kỳ hạn.

* Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.

Đây là loại tiền gửi mà khách hàng chỉ có thể rút tiền theo thời hạn đã được thoả thuận giữa ngân hàng với khách hàng.

Tiền ký gửi.

Đây là khoản tiền mà khách hàng đem ký gửi vào ngân hàng. Việc sử dụng các khoản tiền ký gửi được thực hiện theo những thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng.

* Tiền ký gửi không kỳ hạn: Là các khoản tiền gửi mà người gửi có quyền rút ra bất kỳ lúc nào họ muốn. Đối với loại này tuỳ theo quy định của từng quốc gia mà không được phép tính lãi hoặc lãi thấp.

* Tiền gử i có kỳ hạn: Với khoản tiền gửi này, NH chỉ phải hoàn trả số tiền ký gửi vào ngày đến hạn ghi trên hợp đồng. Các khoản tiền gửi có kỳ hạn có dạng như một khoản tiền vay của ngân hàng.

Nguồn vốn vay của các tổ chức tài chính, tín dụng.

Các NHTM có thể thu hút vốn bằng cách vay ở các tổ chức tài chính tín dụng. Đối với những NHTM ở các nước phát triển có quan hệ rộng khắp thì nguồn vốn vay là một nguồn vốn vay thường xuyên và khá quan trọng. Nguồn vốn vay mượn này đã trở thành một nguồn vốn quan trọng hơn đối với các ngân hàng trong những năm qua. Trong hoạt động quan hệ quốc tế, việc vay mượn từ các tổ chức tín dụng quốc tế cũng cung cấp cho ngân hàng những nguồn vốn quan trọng.

Các hình thức huy động vốn khác.

Bên cạnh những hình thức huy động vốn nói trên, ngân hàng còn thực hiện việc huy động vốn thông qua việc phát hành tín phiếu ngân hàng, tín phiếu cầm cố... Thông thường đối với những hình thức này thường lãi suất cao hơn so với các loại hình tiền gửi tiết kiệm và các loại hình được huy động vốn theo từng sáng kiến của mỗi (khách hàng) ngân hàng. Với các hình thức này, ngân hàng chủ động về mặt thời hạn hoàn trả do đó có thể sử dụng cho vay theo những nhu cầu hiện tại của mình.

Đây là thành phần quan trọng nhất trong danh mục các khoản sử dụng vốn của ngân hàng. Hoạt động sinh lợi của các ngân hàng là hoạt động tín dụng. Các khoản mục tín dụng có thể đcượ phân loại theo nhiều cách: Mục đích, hình thức bảo đảm (nếu có), kỳ hạn, phương pháp hoàn trả và nguồn gốc khách hàng...

* Căn cứ theo mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng có thể chia thành các khoản mục như sau:

- Nông nghiệp:

+ Cho vay trồng trọt.

+ Cho vay chăn nuôi.

- CN - TTCN

- TM - DV

- Phát triển ngành nghề.

- Mục đích khác.

* Căn cứ theo hình thức đảm bảo thì khoản mục tín dụng được phân chia thành:

- Cho vay có đảm bảo.

- Cho vay không có đảm bảo.

* Căn cứ theo kỳ hạn có:

- Cho vay ngắn hạn.

- Cho vay trung hạn.

- Cho vay dài hạn.

Những quy định về kỳ hạn của các khoản mục cho vay được quy định theo điều luật của từng quốc gia.

* Căn cứ theo phương pháp hoàn trả có:

- Các khoản vay hoàn trả một lần.

- Các khoản vay hoàn trả nhiều lần.

Chúng ta sẽ phân tích một số khoản mục quan trọng.

Cho vay có đảm bảo.

Cho vay có đảm bảo là hoạt động quan trọng của ngân hàng, nó biểu hiện việc ngân hàng cho vay có cầm giữ các vật thế chấp cụ thể nào đó. Vật thế chấp có thể bao gồm nhiều loại khác nhau như: bất động sản, biên nhận ký gửi hàng hoá, máy móc thiết bị, nhà máy, cổ phiếu,... yêu cầu cơ bản của những vật thế chấp là có thể bán được. Lý do thực tế đòi hỏi một khoản cho vay phải được đảm bảo là nhằm tạo điều kiện để ngân hàng giảm bớt rủi ro, mất mát trong trường hợp người vay không muốn hoặc không thể trả nợ khi đến hạn thanh toán với ngân hàng.

Sự đảm bảo là yêu cầu phải có đối với các khoản vay vì một trong những lý do đó chính là sự yếu kém về mặt tài chính của người vay. Sự yếu kém này có thể được biểu hiện thông qua một vài yếu tố, bao gồm: nợ nần chồng chất, quản lý yếu kém và lợi nhuận thấp. Người trong điều kiện thế chấp như vậy có thể tạo uy tín bằng việc thế chấp các tích sản. Khi người vay đem cầm cố các tích sản mang quyền sở hữu của mình thì hộ sẽ có ý hoàn trả nợ. Kỳ hạn của mỗi khoản vay cũng ảnh hưởng đến việc khoản vay đó có cần được bảo đảm hay không. Khi kỳ hạn cho vay dài, rủi ro trong việc hoàn trả tăng lên thì các khoản vay càng cần có sự đảm bảo.

Cho vay không đảm bảo.

Khác với cho vay có đảm bảo, cho vay không bảo đảm được dựa trên hình thức tài chính của người vay, lợi tức có thể thu được trong tương lai, ý thức trả nợ trong quan hệ với ngân hàng trước đây, tín nhiệm của ngân hàng đối với người vay. Trong hoạt động của ngân hàng có một số khoản vay chủ yếu thì trong nhiều trường hợp họ được hưởng lãi suất ưu đãi và không cần có bảo đảm cho khoản vay. Những công ty ấy thường là có danh tiếng trên thị trường, có phương cách quản lý hiệu quả, có các sản phẩm và dịch vụ được thị trường chấp nhận, có lợi nhuận ổn định và có một khả năng tài chính vững mạnh. Họ sẵn sàng cung cấp cho ngân hàng các báo cáo tài chính của công ty để ngân hàng nắm rõ tình hình tài chính, sự tiến bộ của họ và có thể đáp ứng các món cho vay không đảm bảo.

Các doanh nghiệp không phải là khách hàng duy nhất của ngân hàng được cho vay trên cơ sở không cần đảm bảo, nhiều cá nhân cũng được hưởng đặc quyền này. Những người có nhà riêng, có công ăn việc làm ổn định, làm việc trong các công sở có thu nhập ổn định, có tín nhiệm trong quan hệ tín dụng với ngân hàng trước đó cũng sẽ được vay không cần bảo đảm.

Cho vay hoàn trả một lần.

Những khoản cho vay hoàn trả một lần thường là những khoản cho vay thẳng, nghĩa là hợp đồng yêu cầu trả vốn một lần vào thời gian đáo hạn cuối cùng. Những khoản lãi có thể được trả vào từng thời điểm nhất định hoặc trả khi đáo hạn. Đối với khoản vay này việc hoàn trả khi đáo hạn trở thành một gánh nặng đối với khách hàng. Những khoản cho vay hoàn trả một lần thường là những khoản cho vay ngắn hạn.

Cho vay hoàn trả làm nhiều lần.

Cho vay hoàn trả nhiều lần đòi hỏi việc hoàn trả theo những thời điểm nhất định. Cho vay hoàn trả nhiều lần được thực hiện theo nguyên tắc trả dần trong suốt kỳ hạn thực hiện hợp đồng tín dụng. Nhờ vậy việc hoàn trả không trở thành gánh nặng lớn đối với người vay như trong trường hợp toàn bộ khoản vay phải được trả một làan. Đối với nhiều người các khoản cho vay hoàn trả nhiều lần ví như các khoản trả góp, đóng vai trò như một phương tiện tích luỹ. Các khoản trả góp đóng vai trò quan trọng trong việc tăng mức tiết kiệm của người dân và làm tăng hiệu quả sử dụng vốn.

Cho vay ngắn hạn.

Các khoản cho vay ngắn hạn có kỳ hạn là một năm hoặc thấp hơn. Cho vay ngắn hạn được thực hiện một thời gian nhất định dưới một năm hoặc trên cơ sở theo yêu cầu (đã đươcj thoả thuận trước với ngân hàng). Cho vay theo yêu cầu là khoản cho vay không có kỳ hạn nhất định và ngân hàng phải đáp ứng khi khách hàng phát sinh nhu cầu vay vào bất cứ thời điểm nào. Cho vay theo yêu cầu, người vay có được vị thế rất linh hoạt và cóthể trả nợ trong một thời gian rất ngắn.

Những khoản cho vay ngắn hạn thường được sử dụng rộng rãi trong việc tài trợ mang tính thời vụ về vốn luân chuyển và tài trợ tạm thời cho các hoạt động sản xuất kinh doanh.

Cho vay trung và dài hạn.

Thời hạn cho các khoản vay trung và dài hạn tuỳ thuộc vào quy định của từng quốc gia. Theo quy định của nước ta, những khoản vốn vay từ 1 đến 3 năm được coi là trung hạn, từ 3 năm trở lên được coi là dài hạn. Những khoản cho vay này thường có giá trị lớn và khách hàng được vay với mục đích dùng để đầu tư, mở rộng sản xuất, nâng cấp tài sản cố định.

Khách hàng thường ưa chuộng những khoản tín dụng trung hạn và dài hạn vì một số lý do: Thứ nhất, khách hàng có thể yên tâm về thời gian sử dụng vốn trong sản xuất kinh doanh. Trong thời gian ngắn việc sử dụng vốn phục vụ cho mở rộng sản xuất kinh doanh để mang lại lợi nhuận thường gặp khó khăn. Do đó muốn phát triển kinh doanh cần có những nguồn vốn trung hạn và dài hạn để đầu tư cho sản xuất. Thứ hai, các khoản vay trung hạn và dài hạn thường thuận tiện hơn các khoản vay ngắn hạn, doanh nghiệp khong phải hoàn trả toàn bộ khoản vay một lần, thay vào đó các khoản trả nợ được hoàn trả theo phương pháp trả nhiều lần trong thời gian khoản vay được thực hiện. Thứ ba, các vay trung và dài hạn dễ dàng thực hiện hơn so với các hình thức tài trợ khác như phát hành trái phiếu, phát hành cổ phiếu mới...

Vốn trung và dài hạn là mọt nhu cầu cấp thiết đối với việc đẩy mạnh sự tăng trưởng của nền kinh tế tại những quốc gia đang phát triển.

0