Công dụng của cây Nhội là gì?
Cây nhội còn gọi là thu phong, ô dương, trọng dương mộc. Tên khoa học Bischofia trifoliata (Roxb.) Hook.f. (Bischofia javanica Blume, Andrachne trifoliata Roxb.) Thuộc họ thầy dầu Euphorviaceae. Cây Nhội Cần chú ý ngay là có 2 cây mang tên nhội. Cây thứ hai thuộc họ Cỏ roi ngựa ...
Cây nhội còn gọi là thu phong, ô dương, trọng dương mộc.
Tên khoa học Bischofia trifoliata (Roxb.) Hook.f. (Bischofia javanica Blume, Andrachne trifoliata Roxb.)
Thuộc họ thầy dầu Euphorviaceae.
![công dụng của cây Nhội](/pictures/picfullsizes/2018/06/03/hku1528021742.jpg)
Cây Nhội
Cần chú ý ngay là có 2 cây mang tên nhội. Cây thứ hai thuộc họ Cỏ roi ngựa Verbenaceae, có tên khoa học là Citharaxylon quadranguare Jacq. (Xem phần Lưu ý).
A. Mô tả cây:
Nhội là một cây to, có thể cao tới hơn 20m. Lá kép gồm 3 lá chét hình trứng hay hình mác rộng, mép có răng cưa tù dài 8-15cm, đầu lá chét nhọn, đáy lá chét cũng nhọn, cuống chung dài tới 7-10cm. Cụm hoa mọc ở kẽ lá. Hoa đơn tính, khác gốc, nhỏ, màu lục nhạt, hoa đực có 5 lá đài, 5 nhị, hoa cái cũng có 5 lá đài, bầu 3 ô, mỗi ô chứa 2 noãn. Quả thịt, hình cầu, đường kính 1-1,5cm, nâu hay hồng nhạt, vị chát, chức 2-3 màu nâu, vỏ quả trong dai. Mùa hoa: cuối xuân đầu hạ (Hình 26).
B. Phân bố, thu hái và chế biến:
Cây nhội được trồng lấy bóng mát ở nhiều thành phố nước ta, nhiều nhất ở Hà Nội. Còn thấy mọc hoang trong rừng. Cũng thấy mọc ở Ấn Độ, MaLaixia, Inđônêxia, Châu Đại Dương.
Chủ yếu người ta khai thác lấy gỗ nhội màu đỏ nhạt, cứng chắc làm cột nhà, chày giã gạo, ván sàn, tuy nhiên vì gỗ này thường bị sâu bọ ăn cho nên chỉ được coi là loại gỗ hồng sắc, độ bền không quá 20 năm. Lá nhội non thường dùng để ăn gỏi cá. Trước đây ít thấy dùng làm thuốc. Hiên nay người ta bắt đầu dùng là làm thuốc. Có thể hái quanh năm, nhưng tốt nhất vào lúc cây đang ra hoa. Quả có thể ăn được, chim rất ưa.
C. Thành phần hóa học:
Chưa thấy có tài liệu nghiên cứu.
D. Tác dụng dược lý:
Năm 1963, Bộ môn ký sinh trùng Trường Đại học y dược HN nghiên cứu có hệ thống những vị thuốc có khả năng trừ giun sán và các ký sinh trùn khác, phát hiện thấy lá nhội có tác dụng rất mạnh đối với trùng roi (Trichomonas vaginalis); đã áp dụng điều trị thí nghiệm bệnh ỉa chảy của khỉ do lỵ trực trùng, kết quả khỏi đạt 88% trên người, dùng chữa khí hư do trùng roi, kết quả rất nhiều triển vọng. Độc tính rất thấp.
E. Công dụng và liều dùng:
Lá nhội non được dùng trong nhân dân làm món ăn (gỏi cá).
Hiện nay đang được dùng thí nghiệm rộng rãi chống bệnh ỉa chảy, khí hư do trùng roi âm đạo (Tricomonas vaginalis).
Dùng dưới hình thức thuốc sắc hay chế thành cao. Ngày dùng 20-40g lá tươi, nấu với 200ml nước, uống thay nước. Hoặc có thể nấu thành cao: 1kg lá nhội, nấu với nước nhiều lần; lọc lấy nước cô đặc còn 50ml; bôi vào âm đạo những người bị khí hư do trùng roi âm đạo.
Cần chú ý nghiên cứu.
Lưu ý:
Ở nước ta có mọc hoang và được trồng một loại cây nhội nữa có tên khoa học Citharexylon quadrangulare Jacq. Thuộc họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae). Cây này cũng là một loại cây to, cành vuông, lá đơn, khía răng cưa. Hoa trắng, mọc thành chùm thõng xuống. Quả hạch màu đỏ. Trồng làm cây cảnh, lấy bóng mat và lấy gỗ làm đàn. Như vậy, muốn phân biệt chỉ cần chú ý một cây có lá kép gồm 3 lá chét, một bên lá đơn. Cây nhội cho lá găn gỏi cá và làm thuốc có cụm hoa thành chùy hình chóp, còn cây nhội kia có cụm hoa thõng xuống.
Đỗ Tất Lợi (2004) Cây thuốc và vị thuốc Việt Nam