Cồng chiêng Tây Nguyên?
Cồng chiêng Tây Nguyên Theo GS Trần Văn Khê thì các dân tộc Tây Nguyên có hai loại nhạc cụ chính là cồng và chiêng. Cồng làm bằng đồng có cái núm ở giữa, còn nếu phẳng, không có núm thì gọi là chiêng. Cồng chiêng là nhạc cụ bởi nó đưa ra tiếng nhạc, nhưng không phải chỉ nhằm để ...
Cồng chiêng Tây Nguyên
Theo GS Trần Văn Khê thì các dân tộc Tây Nguyên có hai loại nhạc cụ chính là cồng và chiêng. Cồng làm bằng đồng có cái núm ở giữa, còn nếu phẳng, không có núm thì gọi là chiêng. Cồng chiêng là nhạc cụ bởi nó đưa ra tiếng nhạc, nhưng không phải chỉ nhằm để giải trí, tiêu khiển mà còn gắn liền với một lễ hội hay một sự kiện quan trọng. Vì vậy cồng chiêng được xem như một vật thiêng, là phương tiện để con người giao lưu với những bậc vô hình, là sợi dây nối kết giữa người trần và các đấng linh thiêng.
Do đó âm nhạc ở đây không đơn thuần là nghệ thuật mà có chức năng phục vụ một sự kiện đặc biệt trong xã hội hoặc trong đời sống hàng ngày của dân gian. Hầu như mỗi sinh hoạt trong bộ tộc đều dính liền với nét nhạc. Lúc đứa trẻ mới lọt lòng thì già làng sử dụng cái cồng xưa cổ nhất đến bên giường đánh lên để cho những âm thanh đầu tiên lọt vào tai đứa bé là tiếng của bộ lạc, khẳng định nó là một phần của cộng đồng bộ tộc. Khi đứa trẻ lớn lên thì mỗi giai đoạn của đời sống đều gắn liền theo tiếng cồng chiêng, từ việc đồng áng như gieo mạ, gặt lúa; cho đến những buổi gặp gỡ nam nữ, cuộc chia ly hay tang lễ… đều có những bài bản riêng.
Cồng chiêng Tây nguyên rất đa dạng. Dàn cồng chiêng có thể chỉ đơn giản gồm 2 chiếc cồng, cho đến dàn 9, 12, 15 chiếc cồng và chiêng. Mỗi nhạc công sử dụng một cồng. Trong những lễ hội quan trọng còn có thêm cả trống. Người đánh cồng chiêng Tây nguyên luôn di động, còn động tác thì đa dạng như nghiêng mình, cúi người, khom lưng ... Khi đánh cồng, bàn tay phải của nhạc công vỗ vào núm cồng như xoa dịu. Trước đây một số nhà nghiên cứu tưởng rằng chỉ có một cách đánh bên ngoài mà thôi, nhưng về sau mới biết bàn tay trái nắm ở bên trong cũng tham gia biểu diễn với nhiều cách, hoặc nắm vào vành hoặc bóp vành rồi buông ra, giống như cách nhấn nhá trong các loại đờn dây hay cách ém hơi trong kỹ thuật hát.
Sự kiện UNESCO chính thức công nhận cồng chiêng Tây nguyên là kiệt tác di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại là một tin vui lớn lao cho tất cả những ai có tấm lòng yêu mến vốn cổ. Một điều cần xác định là theo quan điểm của UNESCO, một bộ môn nghệ thuật khi được tổ chức này công nhận "kiệt tác" có nghĩa là nghệ thuật đã đạt đến đỉnh cao nên không được phép thay đổi. Đó là cách mà tất cả các nước trên thế giới đều áp dụng cho những bộ môn nghệ thuật đã được xếp loại di sản phi vật thể của thế giới. Chính vì vậy mà sắp tới đây, trong kế hoạch bảo tồn và phát triển cồng chiêng Tây Nguyên chúng ta cần hết sức thận trọng, không để cho việc "đổi mới" làm biến chất một nghệ thuật truyền thống của dân tộc, nay đã trở thành di sản của cả nhân loại.