Cơ hội thâm nhập thị trường Mỹ của hàng hoá Việt Nam
Mỹ là nước lớn với dân số 271,8 triệu người và là một trong những nước có thu nhập bình quân đầu người cao nhất. Thế giới xem Mỹ là thị trường khổng lồ vì có sức mua lớn khoảng 7.000 tỷ USD/năm. GDP năm 1999 của Mỹ là 9.256 tỷ USD (gấp 300 ...
Mỹ là nước lớn với dân số 271,8 triệu người và là một trong những nước có thu nhập bình quân đầu người cao nhất. Thế giới xem Mỹ là thị trường khổng lồ vì có sức mua lớn khoảng 7.000 tỷ USD/năm. GDP năm 1999 của Mỹ là 9.256 tỷ USD (gấp 300 lần Việt Nam ).Trên thế giới có 100 tập đoàn kinh tế làm ăn có hiệu quả nhất thì có 61 tập đoàn là của Mỹ. Theo số liệu của Bộ Thương mại thì năm 1999 kim ngạch xuất khẩu của Mỹ là 960 tỷ USD nhưng kim ngạch nhập khẩu của họ lên tới 1.230 tỷ USD, trong đó hàng dệt may khoảng 40 tỷ USD, hải sản 7,431 tỷ USD, cà phê 2,820 tỷ USD, dầu thô 35,192 tỷ USD và giày dép 13-14 tỷ USD. Mấy năm qua hàng Việt Nam vào Mỹ phần lớn phải chịu mức thuế cao tới 40% nhưng kim ngạch xuất khẩu của ta sang Mỹ vẫn tăng đáng kể. Theo số liệu của Hải quan Hoa Kỳ, năm 1994 kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Mỹ ở mức 50,4 triệu USD nhưng đến 1996 đã lên đến 308 triệu USD và trong năm 1999 là 601,9 triệu USD, tăng gấp 12 lần, bình quân một năm tăng 64,2%, cao gấp gần 3 lần tốc độ tăng tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Có một số mặt hàng xuất khẩu sang Mỹ đã đạt kim ngạch khá và tăng qua các năm như cà phê, giày dép, đồ thêu ren, rau quả, cao su...Việt Nam cũng xuất sang Mỹ dầu thô, hàng may mặc. thịt cá, hải sản tươi sống, sành sứ, gốm, đồ da, đồ bọc da, đồ gỗ gia dụng...Riêng mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ, trong 6 tháng đầu năm 2000 đã đạt gần 123 triệu USD, gấp 2,1 lần cùng kỳ năm 1999 và chiếm 22% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của nước ta.
Ngân hàng thế giới (WB) nhận định khi Hiệp định thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực thì kim ngạch xuất khẩu và nhóm hàng hoá như gạo, dệt may, cà phê, hải sản... xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ có thể tăng từ 600 triệu USD hiện nay lên 800 triệu USD/năm.
Hiện tại, các doanh nghiệp Việt Nam đã tranh thủ xuất khẩu sang thị trường Mỹ những mặt hàng có thuế suất nhập khẩu bằng “0” như cà phê, tôm đông lạnh, quế và cao su tự nhiên ngày càng nhiều (trung bình tăng 10%). Năm 1999 kim ngạch xuất khẩu những mặt hàng này đạt gần 300 triệu USD. Những mặt hàng đang chịu mức thuế cao cũng được đưa nhanh vào thị trường Mỹ như giày dép năm 1995 mới xuất sang Mỹ được 7 triệu USD, đến năm 1996 lên đến 39 triệu USD, năm 1998: 111 triệu USD và hiện nay đã trở thành nước đứng thứ 12 trong số các nước xuất khẩu giày dép vào thị trường Mỹ; hàng dệt may xuất sang Mỹ cũng tăng khoảng 3- 4 lần, năm 1995 là 2,7 triệu USD, năm 1997 là 7 triệu USD và năm 1999 là 70 triệu USD...chắc chắn, khi Hiệp định thương mại có hiệu lực mức thuế các mặt hàng này sẽ giảm từ 1,5 đến 2 lần, hàng dệt may giảm từ 2,5 đến 10 lần, dầu mỏ giảm 4 lần, gạo giảm 3 lần. Các mặt hàng như dứa, mật ong của Việt Nam trước đây nhập vào Mỹ mức thuế thường cao gấp 10 lần so với các nước khác. Nhưng khi Hiệp định thương mại Việt- Mỹ cũng như những Hiệp định liên quan khác có hiệu lực, tất cả các mặt hàng có thuế suất cao sẽ giảm xuống ngang bằng mức thuế suất các nước khác có quan hệ tối huệ quốc, sẽ thực sự là cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng hoá của mình sang Mỹ vì khi đó hàng Việt Nam vào Mỹ thuế trung bình sẽ giảm từ 40% xuống 3%. Việc ký kết Hiệp định thương mại Việt- Mỹ tạo cơ hội cho hàng hoá Việt Nam thâm nhập thị trường Mỹ, đặc biệt là các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, từ đó góp phần nâng kim ngạch xuất khẩu, cải thiện cán cân xuất nhập khẩu trong quan hệ thương mại với Mỹ.
Hàng nông sản:
Khi Hiệp định thương mại Việt- Mỹ có hiệu lực, ta sẽ thuận lợi hơn trong việc mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản. Mặt hàng rau tươi xuất sang Mỹ chênh lệch giữa có MFN và phi MFN là 10% và 50% nên khi có MFN, nước ta có thể xuất khẩu hàng chục triệu USD rau quả tươi sang Mỹ, nếu đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm nghiêm ngặt của Mỹ (Thuế suất của rau quả giảm từ 22 cent/kg xuống còn 1 cent/kg và quả tươi giảm từ 10 cent/kg xuống 0,4 cent/kg, chè xanh từ 20% xuống 7%). Hiện nay mỗi năm Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ 30 triệu USD hạt điều. Các chuyên gia Bộ Thương mại dự đoán kim ngạch xuất khẩu hạt điều có thể tăng lên gấp đôi (60 triệu USD) nếu các doanh nghiệp sản xuất và chế biến mặt hàng này đáp ứng được đòi hỏi về chất lượng. Nước ta mỗi năm xuất sang Mỹ trên 100 triệu USD cà phê. Các nhà xuất khẩu cà phê Việt Nam đã có kinh nghiệm trụ ở thị trường Mỹ nên khả năng xuất khẩu mặt hàng này sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới.
Hàng dệt may:
Hiệp định thương mại Việt- Mỹ vừa được ký kết đã mở ra nhiều triển vọng mới cho ngành dệt may trong thời gian tới bởi Mỹ luôn đứng đầu các nước trên thế giới về nhập khẩu hàng dệt may. Theo tình hình hiện nay, sau khi Việt Nam được hưởng Quan hệ Thương mại bình thường, Việt Nam có thể xuất khẩu vào Mỹ với kim ngạch xấp xỉ 1 tỷ USD ngay từ năm đầu tiên nếu chuẩn bị tốt các điều kiện. Khả năng gia tăng kim ngạch xuất khẩu dệt may vào Mỹ có nhiều triển vọng do giá lao động thấp, các công ty Mỹ sẽ tìm kiếm nguồn hàng giá thành rẻ với số lượng lớn tiêu thụ ở Mỹ. Hiện nay, hàng dệt may Việt Nam với chất lượng cao và chủng loại phong phú đã được các thị trường khó tính Nhật và EU chấp nhận sẽ dễ dàng chinh phục khách hàng Mỹ nhất là khi thuế quan bị cắt giảm bởi quy chế NTR. Tuy nhiên, theo Bộ Thương mại, hàng dệt may là mặt hàng được bảo hộ cao bằng hàng rào thuế quan và hạn ngạch, trong quan hệ song phương sẽ là một trong những vấn đề nóng bỏng nhất. Nếu mở được thị trường này, hàng dệt may của Việt Nam theo khả năng sản xuất có thể thu hút được các nước khác đầu tư vào Việt Nam làm hàng xuất khẩu đi Mỹ.
Hàng giày dép:
Mức tiêu thụ giày dép của Mỹ rất lớn, chỉ cần giành được 10% thị trường này cũng có thể đạt kim ngạch trên 1,5 tỷ USD, lớn hơn tổng kim ngạch xuất khẩu giày dép mà Việt Nam có thể đạt được trong năm nay.
Bà Châu Huệ Cẩm, Thứ trưởng Bộ Công nghiệp nhận định với thị trường Mỹ, hàng da giày của Việt Nam có thể tham gia vào thị trường “thượng lưu” nếu đi kèm với mác của các hãng nổi tiếng như Adidas, Reebok. Còn với phân khúc thị trường “hạ lưu” thì phải cạnh tranh với hàng của Trung Quốc. Tuy vậy, thị trường Mỹ cũng không khó tính, nếu đã vào được thì khả năng trụ lại là không quá khó khăn.
Nhận xét về khả năng tăng tốc của ngành Da Giày Việt Nam , một chuyên gia của Viện Nghiên cứu Thương mại (Bộ Thương mại) khẳng định, với Hiệp định thương mại Việt- Mỹ, thuế suất thuế nhập khẩu từ mức 35% trước đây sẽ chỉ còn 20% đối với mặt hàng giày dép của Việt Nam sang Mỹ. Trước thời điểm Hiệp định thương mại Việt- Mỹ có hiệu lực, sản phẩm giày dép Việt Nam xuất khẩu tới hơn 40 nước, trong đó thị trường chủ yếu là các nuớc EU, Mỹ, Nhật. Việt Nam được đánh giá là một trong 5 nước có số lượng giày dép tiêu thụ nhiều nhất ở EU, do lợi thế giá rẻ, chất lượng và mẫu mã chấp nhận được với loại sản phẩm chủ yếu là giày thể thao.
Hàng thuỷ - hải sản:
Thời gian qua, Mỹ luôn luôn là một trong những thị trường lớn nhất nhập khẩu các mặt hàng thuỷ, hải sản của Việt Nam như tôm sú, điệp, nghêu, cá tra, cá đồng, cá basa đông lạnh và chỉ đứng thứ 2 sau Nhật trong danh sách 10 thị trường có thị phần cao nhất của hàng thuỷ, hải sản Việt Nam .
Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của nước ta sang Mỹ tăng nhanh trong những năm gần đây: từ 39 triệu USD năm 1997 lên 80 triệu USD năm1998 và 129 triệu USD năm 1999. Trong 8 tháng đầu năm nay, lượng thuỷ sản của ta xuất khẩu sang Mỹ đạt trị giá 206,6 triệu USD. Ước tính, tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường này trong cả năm nay sẽ đạt trên 250 triệu USD.
Dự đoán trên dựa vào các cơ sở sau đây:
- Những năm 2000 - 2005 tăng trưởng đột biến (tổng xuất khẩu của ta vào Mỹ tăng 6 lần trong 5 năm), đặc biệt các mặt hàng tăng mạnh nhất là: giày dép, may mặc, máy móc, điện tử, đồ gỗ, đồ chơi, nông sản chế biến, đây là thời kỳ chuyển hướng thị trường và thay đổi cơ cấu kinh tế. Thời kỳ này chủ yếu đẩy mạnh xuất khẩu các hàng mà ta có ưu thế về thủ công và lao động rẻ như: giày dép, dệt may, thủ công mỹ nghệ truyền thống và bước đầu phát triển máy móc và hàng chế biến cao chuẩn bị cho thời kỳ tiếp theo.
- Thời kỳ 2005- 2010 xuất khẩu của ta sang Hoa Kỳ sẽ tăng chậm lại nhưng phải tăng gần gấp đôi trong 5 năm. Hàng nguyên liệu thô và nông sản thô tăng chậm hơn hay giữ nguyên thị phần.
- Đến năm 2010 thị phần của Việt Nam trong nhập khẩu của Hoa Kỳ chiếm 0,96% là một chỉ tiêu cao (năm 1998 Malaysia chiếm được thị phần vào khoảng trên 2% nhập khẩu của Mỹ đứng thứ 12 trong đối tác thương mại của Hoa Kỳ). Ta chỉ có thể đạt được quy mô trên khi ta đẩy mạnh được công nghiệp hoá, thu hút mạnh mẽ đầu tư Hoa Kỳ, chủ yếu của các công ty siêu quốc gia, đồng thời sử dụng tốt lực lượng người Việt Nam tại Hoa Kỳ, vào các ngành công nghiệp với quy mô lớn làm hàng xuất khẩu trở lại Hoa Kỳ như máy móc thiết bị, điện tử, viễn thông, điện đồng thời tận dụng cả các mặt hàng tốn nhiều sức lao động như: dệt may, giày dép, thực phẩm chế biến, thủ công mỹ nghệ, văn hoá phẩm...
- Nhập khẩu của Hoa Kỳ trong thập kỷ qua đã đạt tốc độ tăng trưởng trung bình năm vào khoảng 10% và dự kiến trong thập kỷ tới sẽ vẫn đạt được thịnh vượng như thập kỷ qua do toàn cầu hoá thành công và các nền kinh tế khác cũng được hưởng chung thành quả này. Tuy nhiên trong giai đoạn 2000- 2010 dự kiến tăng thấp hơn thập kỷ qua trung bình 4% năm (năm 2010 so 1998 tăng 26%).